Niềm tin đặt sai chỗ

.

Chỉ vì nhẹ dạ và cả tin, vợ chồng bà N.T.K.T (SN 1968, trú quận Ngũ Hành Sơn) rơi vào cảnh nghèo túng. Bao nhiêu niềm tin, hy vọng cuối cùng “đổ sông, đổ biển”, vợ chồng bà T. phải oằn lưng gánh món nợ bằng cả gia tài.

Từng rất hy vọng nhưng sự thật đã khiến vợ chồng bà T. thất vọng, hoàn cảnh của ông bà bây giờ đúng nghĩa “tiền mất tật mang”. Nhớ lại buổi đầu gặp gỡ, bà T. còn tấm tắc khen P.T.S.H (SN 1993, trú quận Thanh Khê) là cô gái đẹp người, đẹp nết; nói năng hòa nhã, nhẹ nhàng. Bà T. vì cả tin mà quên rằng, nghề của H. là “bán nước bọt” bằng những lời ngọt ngào để lấy về cho mình những hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.

Ngẫm lại, bà T. chỉ biết ôm đầu, thở dài trong bất lực. Vợ chồng bà dùng cả tấm chân tình, sự thật thà, rút ruột rút gan đối đãi với H. Ngược lại, H. dùng sự lươn lẹo, xảo quyệt, mưu hèn kế bẩn để đáp trả. Biết vợ chồng bà T. có con đang thực hiện nghĩa vụ quân sự và mong muốn con được học hành đến nơi đến chốn, H. “vẽ” ra viễn cảnh tươi đẹp cho họ. H. đưa thông tin gian dối về việc có khả năng xin vào học tại trường sĩ quan quân đội và hứa sẽ “chạy” cho con trai bà một suất. Không dừng lại ở đó, H. còn “vẽ” ra việc công ty bảo hiểm huy động vốn lãi suất cao làm vợ chồng bà T. tưởng thật… Nghe con đường H. vẽ ra hợp lý, vợ chồng bà T. không nghi ngờ, cứ vậy, nhiều lần sập bẫy lừa của cô nhân viên tư vấn bảo hiểm nhân thọ với tổng số tiền hơn 589 triệu đồng. H. đã khiến vợ chồng bà T. trở thành con nợ, khó khăn ngập đầu. Vậy nhưng ở đời, không có chuyến xe nào chạy mãi không dừng, cũng không có cuộc chơi nào tồn tại mãi mãi, càng không có kẻ bất nhân nào lại tồn tại lâu trong bóng tối. H. đối diện với pháp luật, phải trả giá là điều hiển nhiên.

Đối diện vợ chồng bà T. tại tòa, H. không dám nhìn thẳng. Sự tham lam làm mờ đi lý trí khiến H. không thể bước ra khỏi vũng lầy. Sự ân hận cũng vì thế mà trở nên quá muộn. Quá trình bị khởi tố, H. được tại ngoại với lý do “người phạm tội là phụ nữ có thai”. Tuy nhiên, khi Tòa án nhân dân (TAND) thành phố tiếp nhận hồ sơ, yêu cầu cung cấp tài liệu liên quan đến việc sinh nở, giấy chứng sinh, H. không thực hiện. Cũng vì lý do này, tòa án yêu cầu thay đổi biện pháp bắt tạm giam chờ ngày xét xử.

Hành vi phạm tội của mình quá rõ ràng nên H. không có ý kiến gì thêm. Tuy nhiên, ở một vài nội dung liên quan, dù hội đồng xét xử (HĐXX) nhiều lần hỏi nhưng H. vẫn không thể đưa ra câu trả lời hay một lý giải nào biện hộ. H. nói bản thân đã sinh con, nhưng tuyệt nhiên không tài nào cung cấp được giấy chứng sinh, cũng không một lời giải thích vì sao không có. Theo lời H., cô làm mẹ đơn thân của một cặp song sinh, các con của cô được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo. Khi được hỏi, H. khai, ngay sau khi ra đời, hai đứa trẻ không sống với cô mà sống với người cha. Lời khai của H. thực sự không thuyết phục, hoàn toàn không có gì để chứng minh. Sinh con những không có giấy chứng sinh để cung cấp cho tòa, làm mẹ đơn thân nhưng sinh ra không nuôi mà để cho “ba đứa trẻ” nuôi, chính sự bất hợp lý này, HĐXX đặt ra nghi vấn liệu “bị cáo có mang thai hộ?”, “bị cáo đang cố tình qua mặt các cơ quan tiến hành tố tụng?”. Dù là bất cứ câu hỏi nào liên quan đến việc sinh nở, H. đều chọn cách im lặng đến cùng.

Chính sự nhẹ da, tin người vô điều kiện của vợ chồng bà T. khiến lòng tham của P.T.S.H có cơ hội và trở nên không đáy. H. phải trả giá cho hành vi phạm tội của mình bằng quãng thời gian 10 năm sau cánh cửa trại giam. Trong khi đó, với hoàn cảnh hiện tại, vợ chồng ông bà T. chắc phải mất gấp đôi thời gian ấy để trả các món nợ của mình.

TRÍ DŨNG

;
;
.
.
.
.
.