Vùng đất "tứ phụng"

.

Người Quảng vẫn luôn tự hào về truyền thống hiếu học và học giỏi của mình. Các nhà nghiên cứu xếp Quảng Nam là vùng “đất học”. Suốt 100 năm khoa cử của triều Nguyễn, khoa bảng Quảng Nam xếp thứ 6 trong số 21 địa phương của cả nước. Để làm nên vùng “đất học” đó, phải kể đến sự đóng góp to lớn của vùng “đất học Điện Bàn” mà người đời sau vẫn gọi là vùng đất “Tứ phụng”.

Mộ cụ Phạm Phú Thứ, vị tiến sĩ trẻ tuổi nhất của Quảng Nam nói chung, vùng đất “tứ phụng” nói riêng
Mộ cụ Phạm Phú Thứ, vị tiến sĩ trẻ tuổi nhất của Quảng Nam nói chung, vùng đất “tứ phụng” nói riêng

Đất “tứ phụng”

Điện Bàn là vùng đất học hàng đầu của xứ Quảng. Trong số 293 vị đỗ trung, đại khoa (cử nhân: trung khoa; phó bảng, tiến sĩ: đại khoa), Điện Bàn có 123 người, chiếm 42% số khoa bảng cả tỉnh.

Khi nói đến khoa cử Nho học, người Quảng Nam thường tự hào về “Ngũ phụng Tề phi”. Đó là khoa thi Hội năm Mậu Tuất 1898, Quảng Nam có 5 người thi đỗ gồm 3 tiến sĩ và 2 phó bảng. Nhưng sau này nhiều người không mặn mà lắm với danh xưng này không những vì các vị ấy không để lại sự nghiệp lớn về văn chương, chính trị mà còn vì đây không phải là sự kiện “hiếm”.

Trong suốt lịch sử khoa cử của triều Nguyễn có đến 8 khoa có “Ngũ phụng Tề phi”, ngoài ra còn có 1 khoa “lục phụng” (Thừa Thiên) và một khoa “thất phụng” (Hà Nội). Không chỉ Quảng Nam mới có ngũ phụng mà còn 3 địa phương khác (Hà Nội, Thừa Thiên, Nghệ An) với “chiến tích” còn vượt trội hơn.

Ở tỉnh là chuyện thường, thế nhưng, “tứ phụng tề phi” ở một huyện lại là chuyện rất hiếm. Trong lịch sử khoa cử của triều Nguyễn, trên cả nước chỉ thấy có hai huyện có được “chiến tích” này mà thôi, đó là Nam Đàn (Nghệ An) với khoa thi năm Canh Tuất (1910) và Điện Bàn (Quảng Nam) với khoa thi năm Mậu Tuất (1898).  

Khoa “ngũ phụng” năm 1898 của Quảng Nam, trong số 5 con chim phụng cả tỉnh thì Điện Bàn đã chiếm hết 4. Đó là: Phạm Liệu (Trừng Giang - Điện Trung), Phạm Tuấn (Xuân Đài - Điện Quang), Ngô Chuân (Cẩm Sa - Điện Nam), Dương Hiển Tiến (Cẩm Lậu - Điện Phong).

Vì thế có lẽ người Quảng nên dành nhiều “tình cảm” cho sự kiện “tứ phụng” của Điện Bàn hơn là chuyện “ngũ phụng”!

Và những điều lạ lẫm, lý thú

Không chỉ là vùng đất “tứ phụng” hiếm hoi của cả nước, Điện Bàn còn rất nhiều điều lạ lẫm, lý thú về học hành, thi cử.

Điện Bàn là nơi có người đỗ cao nhất. Ngoài Phạm Phú Thứ (1821-1882) là một trong hai song nguyên (đỗ thủ khoa cả hai khoa thi Hương và Hội) của cả tỉnh (người thứ hai là Huỳnh Thúc Kháng ở Tiên Phước), Điện Bàn còn là quê hương của vị Hoàng giáp duy nhất của cả tỉnh.

Trong số 15 tiến sĩ của cả tỉnh chỉ có Phạm Như Xương (1844-1917) là đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ còn 14 vị kia đều đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Phạm Như Xương vì thế được tôn vinh là “Đệ nhất khoa bảng Quảng Nam”(1). Không những đỗ cao, Phạm Như Xương còn sẵn sàng chấp nhận “bị đục tên trên bia đá ở Văn miếu” để đem sở học của mình phục vụ cho dân tộc với việc viết Hịch Văn thân và tham gia trực tiếp phong trào Nghĩa hội (1885-1888).

Điện Bàn đóng góp nhân sự cho các danh xưng cao quý khác của đất học Quảng Nam như Tứ hùng, Tứ hổ, Ngũ phụng Tề phi, Lục phụng bất tề phi…

Về danh xưng Tứ hùng, theo cụ cử nhân Hồ Ngận trong Quảng Nam xưa và nay, đó là 4 người được nhân dân vinh danh gồm Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp và Tiểu La Nguyễn Thành. Điện Bàn đóng góp một người là Trần Quý Cáp.

Về danh xưng Tứ hổ, theo GS. Phạm Ngọc Khánh thì đó là “Bốn người học hành uyên bác, trí tuệ tài hoa, có sức mạnh phi thường trong trường văn trận bút của Quảng Nam, gồm Phạm Liệu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp”. Điện Bàn đóng góp 2 người là Phạm Liệu và Trần Quý Cáp.  

Với danh xưng Ngũ phụng Tề phi, Điện Bàn lại đóng góp đến 80% “nhân sự” với 2 tiến sĩ (Phạm Liệu, Phạm Tuấn) và 2 phó bảng (Ngô Chuân và Dương Hiển Tiến).

Với danh xưng Lục phụng bất tề phi (do học giả Nguyễn Văn Xuân đề nghị, là 6 người tuy không đỗ cùng một khoa nhưng đã làm lẫy lừng cho đất Quảng) gồm: Phạm Phú Thứ (tiến sĩ), Phan Châu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu (phó bảng), Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng (tiến sĩ), Phạm Như Xương (Hoàng Giáp)... Với danh xưng này Điện Bàn góp 4 người (67%).

Điện Bàn có tiến sĩ trẻ tuổi nhất và tiến sĩ lớn tuổi nhất. Phạm Phú Thứ, người làng Đông Bàn (nay là Điện Trung, Điện Bàn), đỗ tiến sĩ khi mới 21 tuổi (ông sinh năm 1821, đỗ năm 1842); Phạm Tuấn người làng Xuân Đài (nay là xã Điện Quang, Điện Bàn) là tiến sĩ lớn tuổi nhất, đỗ khi đã 47 tuổi (ông sinh năm 1852, đỗ năm 1898).

Trường hợp khoa cử của chí sĩ Trần Quý Cáp cũng là điều rất đặc biệt. Ông là người học giỏi nhưng lại lận đận trong thi Hương. Thi mãi không đỗ cử nhân dù học trò của ông nhiều người “vượt vũ môn” một cách dễ dàng.

Đến khi được đặc cách để thi Hội, ông lại thể hiện tài năng vượt trội của mình khi để lại cho đời một câu đối bất hủ của Tiến sĩ Đào Nguyên Phổ: “Tố tiến sĩ khước dị, tố cử nhân khước nam. Ức ức dương dương vô phi tạo ý/ Áp Đình nguyên tại Hội, áp Hội nguyên tại Đình. Vinh vinh quý quý hà tất khôi khoa”.

Tạm dịch: Đỗ tiến sĩ thì dễ, đỗ cử nhân lại khó. Thăng trầm không phải là không do ý trời/ Đỗ trên người đỗ đầu thi Hội trong thi Đình, đỗ trên người đỗ đầu thi Đình tại thi Hội. Thế là vinh hiển lắm rồi cần gì phải đỗ thủ khoa.(2)

Điện Bàn cũng là vùng đất duy nhất của Quảng Nam và rất hiếm hoi của cả nước có Ngũ tử đăng khoa, đó là gia đình tộc Nguyễn ở làng Túy La (nay thuộc xã Điện Hồng) với 5 anh em cùng thi đỗ, trong đó 2 người đỗ cử nhân là Nguyễn Thành Ý và Nguyễn Tĩnh Cung và 3 người đỗ tú tài là Nguyễn Khắc Trân, Nguyễn Chánh Tâm và Nguyễn Tu Kỹ. Sau này Nguyễn Thành Ý trở thành nhà ngoại giao chuyên nghiệp của nước ta.

Còn nhiều nữa, nếu chịu khó nghiên cứu chúng ta cũng sẽ khám phá thêm nhiều điều lý thú về chuyện học hành, khoa cử của vùng đất “tứ phụng” này!

LÊ THÍ


(1) Khoa cử triều Nguyễn không có các học vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa như thời Lê, thay vào đó là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) và Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

(2) Khoa thi Hội, Huỳnh Thúc Kháng đỗ thứ nhất, Trần Quý Cáp thứ hai, Đặng Văn Thụy thứ ba… Vào thi Đình, Đặng Văn Thụy đỗ thứ nhất, Trần Quý Cáp thứ hai, Huỳnh Thúc Kháng tụt xuống vị trí thứ tư…).

;
.
.
.
.
.
.