Bùi Thế Mỹ là nhà báo tiên phong của xứ Quảng. Tiên phong không chỉ vì tham gia làng báo sớm mà còn ở thái độ trách nhiệm của một người làm báo trước thời cuộc.
Tờ báo đầu tiên Bùi Thế Mỹ làm chủ bút ở Sài Gòn. |
Người con của đất Duy Xuyên
Bùi Thế Mỹ thuộc dòng dõi tộc Bùi, một dòng tộc nổi tiếng của huyện Duy Xuyên. Tổ tiên ông có nguồn gốc từ Nghệ An theo vua Lê Thánh Tông trong cuộc Nam chinh năm 1471, sau đó được cử ở lại để khai thác vùng đất mới chiếm lại của người Chiêm. Tộc Bùi trở thành tộc tiền hiền của làng Vĩnh Trinh.
Bùi Thế Mỹ sinh năm 1904, là con trai trưởng của cụ Bùi Thiện có quê gốc làng Vĩnh Trinh nhưng tổ tiên di cư lên sống ở làng Phú Nhuận, xã Đông An (nay là xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên). Bùi Thế Mỹ lại được sinh ra và lớn ở quê ngoại, làng Bảo An, phủ Điện Bàn (nay là xã Điện Trung, thị xã Điện Bàn). Mẹ ông là bà Phan Thị Duyên, con gái tộc Phan làng Bảo An, một dòng tộc khoa bảng hàng đầu của Quảng Nam. Bà là em gái của nhà cách mạng Phan Thành Tài, người từng tham gia phong trào Duy tân (1905-1908) và cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân năm 1916, bị bắt và xử tử ở Vĩnh Điện.
Được hưởng truyền thống của hai gia tộc lừng lẫy, từ nhỏ Bùi Thế Mỹ đã tỏ ra rất thông minh, đĩnh ngộ. Học ở lớp nào, ông cũng luôn chiếm một trong 3 hạng đầu. Lúc nhỏ, học ở quê nhà, sau ra Huế học. Sau khi học xong chương trình trung học với tấm bằng Thành chung, năm 1923, Bùi Thế Mỹ vào Sài Gòn làm nghề dạy học và làm báo, viết văn.
Ông từng thay Trần Huy Liệu chủ trương tờ Đông Pháp thời báo, rồi sau đó làm chủ bút các tờ Trung lập, Tân thế kỷ, Thần chung và chủ nhiệm tờ Dân báo, tờ báo ông theo đuổi đến cuối đời. Ông ký các bút danh Hy Tô, Thông Reo và Lan Đình.
Trong thời gian làm chủ bút tờ Đông Pháp thời báo và tờ Trung lập, Bùi Thế Mỹ đã cùng Phan Khôi xây dựng mục “Phụ trang văn chương”. Mục này bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sử Việt Nam, nêu các lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, vấn đề đạo văn, vấn đề “nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”… Mục Phụ trang văn chương được nhiệt liệt hoan nghênh tạo nên một dấu ấn về mặt văn học của báo chí!
Ông là nhà báo yêu nước. Những tờ báo mà ông cộng tác hoặc đứng ra thành lập là những tờ báo tiến bộ, có uy tín ở Sài Gòn thời bấy giờ luôn thể hiện quan điểm yêu nước, đứng về phía nhân dân.
Năm 1936, phe tả thắng thế trên chính trường Pháp, Mặt trận Bình dân lên nắm quyền, đã mở rộng và nới lỏng đường lối cai trị ở các thuộc địa. Nhân cơ hội đó, ở Sài Gòn, các nhân sĩ tiến bộ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội đã tổ chức cuộc vận động yêu nước, quy tụ mọi khuynh hướng chính trị trên toàn cõi Đông Dương (gọi là Đông Dương đại hội) Bùi Thế Mỹ được bầu làm Tổng Thư ký Ủy ban vận động. Đại hội chưa họp được thì người Pháp đã ra tay đàn áp phong trào. Bùi Thế Mỹ bị trục xuất khỏi Nam Kỳ phải chạy về Quảng Nam rồi Bình Thuận. Hai năm sau ông mới trở lại Sài Gòn tiếp tục đấu tranh bằng con đường báo chí.
Bùi Thế Mỹ cũng là một dịch giả. Ông là người Việt đầu tiên dịch tiểu thuyết Trà hoa nữ (La Dame aux caméllias) của Alexandre Dumas con (1824-1895). Ngoài ra, Bùi Thế Mỹ còn là tác giả của một khảo luận về giáo dục: Vai tuồng của nhà gõ đầu trẻ.
Mặc dầu là nhà báo nổi tiếng, cuối đời Bùi Thế Mỹ vẫn cảm thấy chưa hài lòng vì ông cho rằng mình là nhà báo “tay ngang” nên chưa có được những tác phẩm báo chí để đời!
Ông mất ngày 27-3-1943 tại Sài Gòn, hưởng dương 39 tuổi.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã có câu đối viếng ông:
Quốc văn báo giới nhị thập tải vu kim, đương đắc bằng trù thôi lão kiện;
Nguyệt đán châu bình Ngũ Hành Sơn du tích, khẳng giao bút thiệp khuất nhân tài.
Tạm dịch:
(Trong) Đội ngũ những người hoạt động báo giới quốc văn hai mươi năm nay, (ai cũng đồng lòng) ca ngợi Anh (Bùi Thế Mỹ) là tay già dặn.
(Đọc) những bài bình luận-phê bình sắc sảo của người xứ Quảng này để lại, (ai cũng) thừa nhận làng báo từ nay đã vắng một nhân tài
(Phú Bình)
Một đồng nghiệp người Hà Nội đã khóc ông:
Mười lăm năm bền chí nhà văn, lấy miệng làm trống, lưỡi làm chuông, reo hò kẻ ngủ người say, nhân sự chưa xong ngòi bút thép.
Bốn chục tuổi lánh mình lầu hạc, nhẹ gót theo Tiên, thân theo Phật, đủng đỉnh non Bồng nước Nhược, trần ai để lại tấm lòng son!
Ghi nhận của đời sau
Chỉ vẻn vẹn có 20 năm làm báo nhưng Bùi Thế Mỹ đã có một chỗ đứng trang trọng trong đời sống báo chí nước ta. Điều này được thể hiện qua ý kiến của người đời sau:
“Ông là một nhà ngôn luận can cường, lỗi lạc, vang tiếng cả Trung, Nam, Bắc vào đầu thế kỷ thứ 20”. (Tộc Bùi Vĩnh Trinh).
“Chẳng bao lâu sau ông đã thuộc hàng cự phách trong làng báo miền Nam” (Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế, Tự điển Nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB Khoa học xã hội 1991, tr.57).
“Sự có mặt của ông trong báo giới đã tạo nên những cuộc vận động chính trị, văn hóa sôi nổi, gây tiếng vang lớn khắp đất nước” (Trần Mạnh Thường, Các tác gia văn chương Việt Nam, T.1, NXB Văn hóa thông tin 2008, tr.110).
“Bùi Thế Mỹ là một ký giả cự phách của làng báo Nam Việt trong thời kỳ tiền chiến, một kiện tướng thuộc thế hệ Nguyễn Phan Long, Diệp Văn Kỳ, Đào Trinh Nhứt, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Bá... những chiến sĩ có lý tưởng quốc gia, muốn dùng ngòi bút để phổ biến những tư tưởng tự do, dân chủ, trình bày lập trường của một dân tộc đang bị đô hộ, muốn đập tan xiềng xích, để vươn mình lên sống mạnh theo truyền thống của một dân tộc đã từng có một lịch sử vẻ vang”. (Thái Văn Kiểm, Dòng Thời gian).
Nhà nghiên cứu Phạm Phú Phong thì gọi ông là nhà báo “ba ngang”. Ngang thứ nhất là “tay ngang” nghĩa là nhà báo không có chuyên môn, không được đào tạo ở một trường lớp cụ thể nào, chỉ học xong trung học là bước vào nghề báo nhưng đã sớm trở thành một trong “tứ đại” của làng báo Sài Gòn. Ngang thứ hai là khí khái hiên ngang của một nhà báo thật sự có bản lĩnh luôn đấu tranh đòi dân sinh dân chủ và lẽ công bằng xã hội; và ngang thứ ba là quá vội vã đi ngang qua cuộc đời như một vì sao xẹt, chỉ trong vòng 39 năm, trong đó có 20 năm đi ngang qua đời sống báo chí.
Vinh danh ông, hiện nay trên cả nước, nhiều nơi có đường phố mang tên Bùi Thế Mỹ!
LÊ THÍ