Cuộc khai quật khảo cứu Trà Kiệu vào thời kỳ 1927-1928 của trường Viễn Đông Bác cổ đã phát hiện tại đây hai phù điêu với hình tượng Rắn thần rất nổi tiếng, vốn là những “linh vật” theo thần thoại trong văn hóa cổ của người Ấn Độ mà người Chăm chịu ảnh hưởng.
![]() |
Hai phù điêu có hình tượng Rắn thần ở Trà Kiệu. Ảnh: Tư liệu |
Một cuộc khai quật và hai phù điêu về rắn
Được phát hiện sớm (Camille Paris, 1891) nhưng mãi đến năm 1927, người Pháp mới thực hiện một cuộc khai quật khảo cứu Trà Kiệu với quy mô lớn.
Cuộc khai quật khảo sát kéo dài suốt gần một năm từ tháng 6-1927 đến tháng 4-1928 do nhà khảo cổ, kiến trúc sư J.Y. Claeys nổi tiếng người Pháp cầm đầu. Nhóm khảo cổ của Claeys đã khai quật một đoạn dài hơn 200m ở phía đông của đồi Bửu Châu và đào hơn 10 điểm thám sát khác. Phát hiện lớn nhất của cuộc khai quật này là đã xác nhận Trà Kiệu là tòa thành có bề dài 1,5km theo chiều bắc - nam và 0,5km theo chiều đông - tây đúng như những gì mà Lệ Đào Nguyên mô tả về thành Điển Xung trong sách Thủy Kinh Chú vào thế kỷ thứ VII.
Đánh giá về cuộc khai quật khảo sát này, nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Quốc gia Hà Nội do Tiến sĩ Lâm Thị Mỹ Dung dẫn đầu đã cho biết trong báo cáo khoa học “Lâm Ấp qua các tài liệu khảo cổ học” (ngày 18-11-2010): “Toàn bộ nền móng của các nhóm tháp ở phía bắc nội thành đã được phát lộ, ngoài ra hơn một chục điểm thám sát khác đã được tiến hành trong phạm vi tòa thành.
Ngoài ra còn phát hiện nhiều tượng đá, gốm và vết tích những chân móng tường gạch... Claeys đã bước đầu phác họa được quy hoạch của tòa thành cổ Trà Kiệu và chứng minh thành Trà Kiệu chính là kinh thành Simhapura của vương quốc Chămpa từng được nhắc đến trên các bi ký Chăm và cũng chính là kinh đô của Lâm Ấp được mô tả trong “Thủy Kinh Chú” (J. Claeys 1927, 1928)”.
Qua khai quật, hàng trăm tượng đá và sa thạch cũng được phát hiện. Phần lớn những tượng này được đưa về lưu trữ tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm tại Đà Nẵng, làm cho “gian Trà Kiệu trở thành gian độc đáo nhất trong không gian trưng bày của bảo tàng”.
Một số tượng có quy mô nhỏ hơn được đưa về trưng bày ở một số bảo tàng khác trong và ngoài nước như Bảo tàng Louis Finot (Bảo tàng Lịch sử quốc gia), Bảo tàng Khải Định (Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế), Bảo tàng Blanchard de la Bross (Bảo tàng Lịch sử TP. Hồ Chí Minh), Bảo tàng Guimet, Paris (Pháp), Bảo tàng George Labit, Toulouse (Pháp). Những bức tượng này càng ngày càng được nghiên cứu và khám phá ra nhiều điểm độc đáo, tạo ấn tượng sâu sắc đối với các nhà nghiên cứu và du khách.
Trong số các hiện vật khai quật trong đợt này có hai bức phù điêu về rắn rất nổi tiếng, đó là phù điêu thần Vishnou ngồi trên rắn thần Naga và phù điêu rắn thần Naga xòe ra che chở cho chim thần Garuda.
Việc tìm thấy các biểu tượng Rắn ở Trà Kiệu không là phải điều gì đặc biệt vì văn hóa của người Chăm chịu ảnh hưởng nặng nề của văn hóa Ấn Độ mà đối với người Ấn Độ thì rắn là linh vật. Từ rất sớm họ đã có tục thờ rắn. Trong bộ kinh Rig Veda có đề cập đến tục lệ này, gồm cả những lời khẩn cầu và vật hiến tế dâng lên cho thần. Vì vậy rắn không những xuất hiện trong các nghi thức tôn giáo mà hình tượng rắn cũng có mặt cả trong các công trình kiến trúc và điêu khắc của họ.
Quý hiếm và độc đáo
Phù điêu thứ nhất là hình thần Vishnou ngồi trên rắn thần Naga. Phù điêu nói về thần Vishnou, một trong ba vị thần tối thượng của thần thoại Ấn Độ, có chức năng duy trì và bảo tồn sự sống. Nội dung phù điêu thể hiện thần Vishnou ngồi thiền định trên mình rắn thần Naga cuộn mình thành chín khúc (đoạn). Phía sau lưng thần Vishnou, hình rắn thần Naga mọc lên mười ba đầu tạo thành một chiếc tán rộng để che cho thần. Từ thân của thần Vishnou mọc ra bốn cánh tay cầm bốn vật tượng trưng, gồm chiếc gậy Kaudamoki biểu trưng cho sức mạnh của tri thức (đất) chiếc tù và bằng ốc biển Sankha biểu thị cho nguồn gốc sự sống (gió), chiếc đĩa không đáy Chanka biểu trưng cho sức mạnh của sáng tạo và hủy diệt (lửa) và đóa sen Padma biểu trưng cho sự sinh hóa thuần khiết của vũ trụ (nước).
Phù điêu có hình lá bồ đề bằng sa thạch, có niên đại thế kỷ VII-VIII, đã được đưa về trưng bày tại gian Trà Kiệu của Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng với ký hiệu BTC 142.
Đây là tác phẩm nghệ thuật quý hiếm vì đề tài liên quan đến thần Vishnou xuất hiện không nhiều trong nghệ thuật điêu khắc Champa ở nước ta.
Phù điêu thứ hai có hình rắn thần Naga đang che chở cho chim thần Garuda. Phù điêu có kích thước khá lớn 1,20 x 1,06 mét, có hình lá bồ để được làm bằng sa thạch. Bốn năm sau ngày phát hiện, vào năm 1931 phù điêu được đưa về Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng sau đó chuyển vào Bảo tàng Blanchard de la Brosse tiền thân của Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh và hiện được trưng bày trong gian Văn hóa Chăm của bảo tàng với ký hiệu BTLS 5980.
Nội dung của phù điêu là hình chim thần Garuda, đầu đội mũ Makuda đang xòe rộng đôi cánh khỏe mạnh. Phía dưới là hình búp sen Padma đang nở rộ. Sau lưng chim thần Garuda là hình rắn thần Naga có 5 đầu đang vươn lên che chở cho chim thần Garuda.
Đây là một bức phù điêu độc đáo vì trong thần thoại Ấn Độ thì giữa chim thần Garuda và rắn thần Naga vốn có mối thù truyền kiếp, luôn tìm cách hãm hại nhau. Trong phù điêu hình ảnh rắn thần Naga lại che chở cho chim thần Garuda thể hiện sự hòa hợp, xóa bỏ thù hận, một hình tượng ít thấy.
Chính vì vậy nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là biểu trưng của sự hòa hợp Âm - Dương (rắn thần Naga biểu trưng cho đất và nước thuộc Âm, chim thần Garuda biểu trưng cho Mặt trời thuộc Dương) và cũng là thời kỳ có sự đồng hành, giao thoa giữa Hindu giáo và Phật giáo trong văn hóa cổ Chămpa.
LÊ THÍ