“Làng giỗ, đổ giống” là câu nói dân gian không chỉ riêng về việc xuống giống gieo trồng cho mùa màng tươi tốt bội thu mà còn thâu tóm cả lịch sử - văn hóa một vùng đất.
![]() |
Nhà thờ Tiền hiền làng Lộc Đại. Ảnh: A.T |
Đó là làng Lộc Đại, thôn Lộc Thượng, xã Quế Hiệp (huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam). Các vị cao niên trong làng cho biết, làng nơi này trước đây nằm lọt thỏm trong một thung lũng hoang vu, nơi rừng thiêng nước độc, cây cối rậm rạp, hố đá gập ghềnh, muông thú quần tụ. Nơi đây còn được gọi là Khe Nứa Xứ do có nhiều khe, ghềnh quanh năm có nước chảy qua, trên bờ toàn cây nứa, cỏ dại mọc um tùm...
Ngôi làng yên bình
Cuốn “Lịch sử đấu tranh cách mạng xã Quế Hiệp 1930-1975” cho biết, theo gia phả các tộc phái ở thôn Lộc Đại, nơi đây có nguồn gốc ở làng Ức Trai, huyện Đông Thành, phủ Thừa Tuyên, tỉnh Nghệ An. Cùng với quá trình Nam tiến mở rộng bờ cõi về phương Nam trong tiến trình lịch sử của dân tộc, vào khoảng thế kỷ XVI, vị thủy tổ tộc Nguyễn Hữu là người đầu tiên đến khẩn hoang, khai phá và lập nên làng xã ở vùng đất này. Ông được dân làng suy tôn là Tiền hiền của làng.
Trước năm 1945, phần lớn người dân làng Lộc Đại sống bằng nghề nông, lúc nông nhàn thì làm thêm một số nghề phụ khác như đốn củi, đốt than, đan lát... Ruộng đất khẩn canh, khai hoang đã gắn với cuộc sống của người dân từ đời này qua đời khác. Các cụ cho biết, nghề nông của làng cho năng suất cao hơn các làng khác, việc trồng lúa phát triển khá sớm do nơi đây có những cánh đồng tương đối màu mỡ như Đồng Mít, Đồng Cung, Đồng Chùa, Trước Cát...
Do sống bằng nghề nông nên người dân ngoài việc dựa vào điều kiện của tự nhiên còn dựa vào kinh nghiệm sản xuất được tích lũy từ cha ông. Trong làng Lộc Đại vẫn lưu truyền qua bao thế hệ kinh nghiệm “làng giỗ, đổ giống” áp dụng cho việc xuống giống gieo trồng cho mùa màng tươi tốt, thu hoạch bội thu.
Ngày giỗ của làng tức là ngày giỗ tổ vị tiền hiền tộc Nguyễn Hữu - 20 tháng 9 âm lịch hằng năm. Trong thời gian này, người dân thường xuống giống gieo trồng lúa và những loại cây lương thực khác như sắn, khoai, đậu phộng... Tất cả đều phát triển tươi tốt và cho năng suất thu hoạch cao. Đặc biệt, do con nước và sự màu mỡ của đất trồng trọt, nơi đây được biết đến với sản phẩm nếp Hương bầu, nếp Đắng vừa dẻo vừa thơm. Người dân các vùng lân cận từ Mông Lãnh, Đồng Tràm, Mông Nghệ (xã Quế Phú), Phong Phú, Sơn Dương (xã Quế Thuận)... tìm tới mua bán, trao đổi nông sản.
Trong những năm chiến tranh bom rơi đạn lạc, cũng như bao làng xứ Quảng khác, làng Lộc Đại có thời điểm “trắng dân” do cư dân trong làng chạy giặc, phiêu bạt khắp nơi, sau giải phóng mới hồi hương làm ăn, sinh sống. Ngày nay, Lộc Đại là một làng quê yên bình với những ruộng lúa quanh năm xanh tốt, là nơi sinh sống của hơn 350 hộ dân. Đặc biệt là người dân nơi đây còn được cả nước biết đến vì sở hữu một giọng nói riêng mang âm hưởng chất giọng miền Nam không lẫn vào đâu được...
Tri ân công đức tiền nhân
Trải qua bao thế hệ, sau khi cuộc sống ở vùng đất mới đã an cư lạc nghiệp, lập thành làng xóm, đời sống dần đi vào ổn định thì những người trong tộc Nguyễn đứng ra vận động các chư tộc trong làng cùng nhau góp công, góp của xây dựng một ngôi đình để thờ tự, tưởng nhớ và ghi ơn những bậc tiền nhân, những vị tiền bối đã có công khẩn hoang, khai phá lập nên làng xã. Đình Lộc Đại được các vua Minh Mạng, Thành Thái, Duy Tân ban tặng sắc phong nhưng do chiến tranh tàn phá và tác động của thời tiết, toàn bộ các sắc phong bị thất lạc.
Xuân thu nhị kỳ hằng năm, dân làng tổ chức tế tự tại đình với đầy đủ những nghi lễ, có chủ tế, bồi tế áo mão chỉnh tề đọc chúc văn; có chiêng trống, nhạc sinh... làm cho lễ tế trở thành ngày hội của làng. Chính vì vậy, đình làng Lộc Đại trở thành một nơi thân quen gần gũi, là nơi che chở, là cái để nhớ, để ngưỡng vọng nhớ về và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí của biết bao thế hệ người dân trong làng.
Cuốn “Lịch sử đấu tranh cách mạng xã Quế Hiệp 1930-1975” cho biết, đình làng Lộc Đại là nơi tổ chức kết nạp đảng cho nhiều đảng viên địa phương và thành lập chi bộ lấy tên Chi bộ Cao Bằng. Trong thời kỳ 1940-1941, cơ quan Xứ ủy Trung Kỳ và tỉnh Quảng Nam đóng tại nhà bà Lê Thị Sưu, cách đình làng khoảng 300m. Khi bị giặc bố ráp, truy lùng, các chiến sĩ, cán bộ phải lẫn tránh, phân tán lên Hang Mũi Thuyền, rút lên Suối Tiên, Hóc Xôi hoặc chọn đình làng Lộc Đại làm nơi trú ẩn.
Trong chiến tranh chống Mỹ, do địa thế hiểm trở, nơi linh thiêng ít người lui tới lại được che chở bởi cây cối rậm rạp, đình làng Lộc Đại được cơ sở cách mạng, bộ đội, du kích địa phương dùng làm nơi hội họp bí mật, nơi chứa lương thực để nuôi quân. Đến năm 1969, địch phát hiện đình làng Lộc Đại là cơ sở hoạt động bí mật và là nơi tập kết kho lương của cách mạng nên đã cho máy bay thả bom làm cho ngôi đình bị sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn lại nền móng...
Sau năm 1975, dân làng Lộc Đại chung tay, góp sức khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới. Ban đầu, đình được phục dựng lại với quy mô nhỏ để làm nơi thờ tự và tổ chức lễ giỗ Tiền hiền hằng năm vào ngày 20-9 âm lịch. Mãi đến năm 2017, với mong muốn có nơi khang trang để thờ tự các tiền nhân đã có công khai phá, lập nên làng xã; đồng thời làm nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của làng, cầu mong làng ngày càng phồn vinh, phát triển; các chư tộc phái trong làng đã huy động nhân dân đóng góp xây dựng ngôi đình kiên cố theo lối kiến trúc cổ. Trong sâu thẳm tiềm thức của dân làng, câu nói dân gian vẫn còn truyền tụng mãi đến giờ: Làng giỗ, đổ giống...
AN TRƯỜNG