Trong số các loại súng thần công thời Nguyễn còn sót lại ở di tích thành Điện Hải nói riêng, Đà Nẵng nói chung, cây súng vừa được phát hiện tại bờ biển phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu hôm 23-5-2019 là khẩu thần công bằng đồng đầu tiên được tìm thấy ở thành phố này, sau hơn 160 năm binh lửa với Phương Tây kể từ ngày 1-9-1858.
Hoa văn trên súng và những chữ Hán được khắc thêm trên hai trục quay. |
Súng có chiều dài tổng thể 174,1cm, gồm hai phần là thân súng dài 160,3cm và chuôi súng (gọi chung là khối hậu) dài 13,8cm; tổng trọng lượng súng 200kg. Thân súng hình trụ tròn không đều, đường kính đáy súng giáp khối hậu 208mm, nhỏ dần đến cổ miệng súng, rồi nở ra ở loa miệng súng với đường kính 146mm.
Toàn thân súng có 3 bộ phận: khoang buồng nạp thuốc súng, bầu súng và nòng súng. Bên trong thân súng là khoảng âm của lòng súng hình trụ tròn được bố trí theo trục chính tâm, dài từ miệng súng đến đáy bầu súng, có đường kính 60mm. Để xác định xuất xứ và niên đại khẩu thần công bằng đồng này, ngoài việc dựa vào những tư liệu lịch sử, còn phải căn cứ đặc điểm cấu tạo, kỹ thuật đúc và các mô-tip hoa văn trang trí trên súng.
Khoang buồng nạp thuốc súng nối khối hậu và đáy bầu súng, là nơi được đúc dày dặn, chắc chắn. Mặt trên của đoạn gia cố đáy bầu (nơi chứa quả đạn khi bắn, tiếp giáp và thông với buồng nạp thuốc súng) là một khối hoa văn hình ô-van được đúc nổi, có tâm là hình chim phượng hoàng xòe cánh đạp chân trên ngọn sóng, được viền quanh bởi hai nửa vòng tròn sóng nước cách điệu ôm dải hoa văn hình các hoa thị 4 cánh xếp nối tiếp nhau, ngoài cùng là hoa văn vòng nguyệt quế cách điệu. Đoạn gia cố bầu súng, phần quai có dạng vảy rồng nhưng thật ra đó là hình con cá heo cách điệu, với đuôi và miệng gắn vào thân súng.
Đáng chú ý, bên dưới hai quai súng là hai trục quay hình trụ tròn đặc, đối xứng nhau theo hướng đồng trục, có chức năng để gác súng lên hai thành giá súng và điều chỉnh tầm bắn lên xuống tùy theo cự ly mục tiêu. Mỗi trục quay dài 54mm và có đường kính 56mm. Mặt ngoài trục quay bên trái theo hướng súng khắc thêm bằng tay hai chữ Hán “đắc thập”, nghĩa là “được 10”, có lẽ khắc vào năm Minh Mạng thứ 11 (1830), vì thời điểm này triều đình bắt đầu quy định loại súng đồng có đường kính 1 tấc 4 phân (tương đương 60mm) được nạp 10 lạng thuốc súng khi bắn (thời ấy 1 cân = 16 lạng).
Nòng súng có trang trí hoa văn bao quanh hình hai con phượng hoàng châu đầu vào nhau, tâm điểm là vòng tròn hoa thị 4 cánh, hai bên là hai dải hồi văn hoa lá liên hoàn với cách điệu của hoa hồng 6 cánh, hoa tulip và quả lựu. Hoa văn mặt dưới vành thắt nòng súng cũng lặp lại đối xứng với hoa văn mặt trên. Khối hậu được đúc liền với thân súng, không có khóa nòng như ở thế kỷ 19 về sau, nên súng này bắn theo kỹ thuật cổ điển là dùng que nhồi thuốc súng và nạp đạn từ miệng súng...
Sơ đồ cấu tạo súng thần công bằng đồng thời Nguyễn ở Đà Nẵng được phát hiện ngày 23-5-2019. |
Căn cứ kiểu dáng, cấu tạo của súng, kỹ thuật đúc cùng các biểu tượng trong hoa văn trang trí trên thân súng, quai súng, cách bố trí lỗ thoát khí theo phong cách súng đồng Hà Lan, cộng thêm phần chữ Hán chỉ khắc tay đơn sơ ở hai trục quay của triều Nguyễn để hướng dẫn pháo thủ sau mỗi lượt bắn, có thể khẳng định khẩu thần công bằng đồng này có xuất xứ từ Hà Lan nhưng được triều Nguyễn sở hữu, và rất đồng dạng với 3 khẩu thần công Hà Lan đúc những năm 1640, 1661, 1677-1678 đang được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế hiện nay.
Có điều, theo sử liệu, chúa Nguyễn không có quan hệ mua bán súng thần công với Hà Lan, nhưng một số súng của Hà Lan vẫn nằm trong tay chúa Nguyễn là do lấy từ chiếc tàu Kemphaan mắc cạn gần khu vực Hoàng Sa năm 1633, từ tàu Der Gooes bị đắm ở bờ biển Đàng Trong năm 1661; và những giao dịch mua súng thần công Hà Lan của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài những năm 1649, 1651, 1652-1654, 1655, 1657, 1662, 1674 đã khiến số súng này lọt vào tay triều Nguyễn sau ngày thắng lợi cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19.
Điều này cho thấy súng thần công Hà Lan bằng đồng triều Nguyễn thế kỷ 19, bao gồm khẩu súng mới phát hiện ở Đà Nẵng, đều có niên đại ở thế 17, dao động trong khoảng từ năm 1633 đến năm 1674, tính đến nay xấp xỉ trên dưới 350 năm tuổi. Một thống kê của Ty Hỏa pháo vào đầu triều Gia Long cho thấy nhà Nguyễn sở hữu đến 193 khẩu thần công có khắc chữ hoa hoặc hoa quả Tây Dương; trong đó, có nhiều súng Hà Lan, và được biên chế tiếp tục cho quân đội.
Tính riêng các loại súng đồng trang bị tại Đà Nẵng, năm 1813, vua Gia Long cho đặt ở đài Điện Hải cũ 30 cỗ. Thời Minh Mạng, năm 1823, cho đặt ở đài Điện Hải mới 107 cỗ; tiếp đó lại đặt thêm 4 cỗ ở Điện Hải, 23 cỗ ở pháo đài Định Hải; sau lại bổ sung thêm 20 cỗ ở Điện Hải và Định Hải. Năm 1836, thành An Hải được đặt 17 cỗ; pháo đài Định Hải 16 cỗ. Năm 1840, cho đặt ở tầng trên của pháo đài Phòng Hải 8 cỗ, sau bổ sung thêm 2 cỗ. Thời Thiệu Trị, năm 1847, cho đặt ở thành Điện Hải 5 cỗ; thành An Hải 5 cỗ; pháo đài Phòng Hải 6 cỗ, Trấn Dương thất bảo 10 cỗ; sau lại đặt thêm ở Điện Hải 1 cỗ, An Hải 1 cỗ, pháo đài Phòng Hải 2 cỗ.
Tuy số lượng súng đồng được trang bị tại Đà Nẵng vào thời Nguyễn khá phong phú, nhưng ở các vị trí bị đánh chiếm giai đoạn 1858-1860, liên quân Pháp-Tây Ban Nha đã tịch thu tất cả súng bằng đồng đem xuống tàu, còn súng gang và sắt thì chỉ “đóng đinh” vào nòng và phá gãy trục quay để chống tái sử dụng. Đó là lý do chính yếu, khiến về sau chúng ta khó tìm thấy súng thần công bằng đồng ở Đà Nẵng.
Từ những dữ liệu trên cho thấy, khẩu thần công bằng đồng xuất xứ từ Hà Lan vừa được phát hiện này nhiều khả năng được quân đội triều Nguyễn đem theo từ thành Điện Hải, trong cuộc rút lui khuya ngày 1 và sáng ngày 2-9-1858.
Hoặc khẩu đội đã trụ lại ở đó để tiếp tục chiến đấu, nhưng bị pháo thuyền đối phương tiêu diệt và vùi lấp bên bãi biển Xuân Thiều. Nhiều vết vỡ toác được vá lại còn in hằn trên khắp thân súng, cho thấy khẩu súng đã trải qua nhiều cuộc chiến cam go kể từ khi có mặt ở Việt Nam 350 năm trước. Khẩu súng thần công bằng đồng vừa được phát hiện, vì thế, có thể coi là minh chứng cho sự kiên cường của người Việt Nam, là di sản vô giá, độc đáo trong kho tàng di vật chống Tây xâm của dân tộc ở mặt trận Đà Nẵng giữa thế kỷ 19.
Nguyễn Quang Trung Tiến