Thay đổi sâu sắc nhất của vùng đất Đà Nẵng/Hòa Vang từ sau năm 1945 là về thể chế chính trị. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu sự cáo chung của chế độ quân chủ ở Việt Nam và khai sinh chế độ dân chủ cộng hòa.
Cầu Nguyễn Hoàng/Nguyễn Văn Trỗi được xây dựng vào nửa sau thập niên 1960 là cây cầu tuổi đời lớn nhất đang còn ở lại với dòng sông Hàn. TRONG ẢNH: Cầu Nguyễn Văn Trỗi ngày nay. Ảnh: XUÂN SƠN |
Đầu tháng 1-1946, lần đầu tiên cử tri Đà Nẵng/Hòa Vang được cầm lá phiếu trên tay để bầu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và bầu HĐND các cấp. Thời điểm đó, Hòa Vang là đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng Nam; còn thành phố Đà Nẵng là đơn vị hành chính trực thuộc cấp kỳ, ngang cấp tỉnh. Ngoài ra, căn cứ Nghị định số 190-TC ngày 5-2-1946 của Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng, có thể thấy Đà Nẵng vào thời điểm này tiếp tục được xem là trung tâm thu thuế trước bạ khu vực duyên hải Trung Bộ và Tây Nguyên.
Bộ máy chính quyền cách mạngở Đà Nẵng/Hòa Vang
Bộ máy chính quyền cách mạng ở Đà Nẵng/Hòa Vang với những người đứng đầu ưu tú như Huỳnh Ngọc Huệ (Bí thư Thành ủy, Đại biểu Quốc hội khóa I), Lê Văn Hiến và Lê Dung (Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời thành phố Thái Phiên/Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội khóa I), Lâm Quang Thự (Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời huyện Hòa Vang, Đại biểu Quốc hội khóa I)… đã điều hành mọi hoạt động của địa phương mình theo một mô hình quản lý khác trước, cho đến cuối tháng 12-1946, và quan trọng hơn là đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai - được Đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ Phạm Văn Đồng biểu dương, góp phần làm thất bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, tạo điều kiện cho cả nước có thời gian để chuyển vào trạng thái chiến tranh, tiếp tục kháng chiến trường kỳ. Sau khi tái chiếm Đà Nẵng/Hòa Vang vào cuối năm 1946, người Pháp một lần nữa trực tiếp quản lý vùng đất này; đến ngày 3-1-1950 bàn giao cho chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp. Sau Hiệp định Genève năm 1954, vùng đất Đà Nẵng/Hòa Vang lại thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa thân Mỹ.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ kéo dài suốt 30 năm, bộ máy chính quyền cách mạng còn non trẻ của Đà Nẵng/Hòa Vang chuyển vào vùng tự do/ra vùng giải phóng tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh trong vùng địch tạm chiếm, tiếp tục đi cùng dân tộc trong suốt cuộc trường chinh giành lại độc lập tự do cho đến ngày toàn thắng cuối tháng 3-1975.
Nếu trong Phong trào Nghĩa hội Quảng Nam (1885-1887), Huỳnh Bá Chánh - nhân vật thứ ba của Tân Tỉnh - từng xây dựng căn cứ bí mật gọi là quân thứ Giang Châu ngay trong vùng địch tạm chiếm (ở khu vực thuộc làng Trung Lương nằm giữa Cẩm Lệ và Đò Xu) để đấu tranh vũ trang chống Pháp, thì tiếp nối truyền thống “quân thứ Giang Châu” ấy, người Đà Nẵng/Hòa Vang thời chống Mỹ đã hình thành một số căn cứ rất nổi tiếng như Khu căn cứ cách mạng K20 ở Đa Mặn (nay thuộc phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, được xếp hạng Di tích cấp quốc gia vào năm 2010); như Khu căn cứ cách mạng B1 ở Hồng Phước (nay thuộc phường Hòa Khánh Bắc, quận Liên Chiểu, đã được xếp hạng Di tích cấp thành phố năm 2019); như Khu Căn cứ cách mạng Huyện ủy Hòa Vang ở Phú Túc (nay thuộc xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang, được Di tích cấp quốc gia vào năm 2014); như Khu căn cứ nổi Sông Đà trên sông Hàn…; và đã đào rất nhiều hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ, nổi tiếng như hầm bí mật nhà Mẹ Nhu và nhà Mẹ Hiền ở Thanh Khê…
Hoàng Sa là đơn vị hành chính trực thuộc chính quyền cách mạng Đà Nẵng
Về địa giới hành chính, từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong kháng chiến chống Pháp, chính quyền cách mạng đã tiến hành 3 lần hợp xã ở huyện Hòa Vang; năm 1968 chia huyện Hòa Vang thành khu I, khu II và khu III, sau đó nhập lại; rồi đến tháng 8-1973 lại chia thành 3 khu... Năm 1967, các quận của thành phố Đà Nẵng và huyện Hòa Vang - cùng các huyện thị khác thuộc tỉnh Quảng Đà - cũng được hợp nhất thành Đặc khu Quảng Đà trực thuộc Khu V.
Đặc biệt, tuy danh chính ngôn thuận thì ở thời điểm đầu năm 1946, quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của tỉnh Thừa Thiên, nhưng vào tháng 4-1946, nghị quyết kỳ họp đầu tiên của HĐND thành phố xác định quần đảo Hoàng Sa là một đơn vị cấp xã của Đà Nẵng. Trong tháng 4 và 5-1946, UBND cách mạng thành phố Đà Nẵng liên tiếp cử 2 đoàn cán bộ ra đảo. Đến giữa năm 1950, được sự đồng ý của Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Nam Trung Bộ, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh thành phố Đà Nẵng Chế Viết Tấn còn ký quyết định thành lập Ủy ban Kháng chiến - Hành chánh Hoàng Sa gồm 5 người, tiếp tục khẳng định quần đảo Hoàng Sa là một đơn vị hành chính trực thuộc chính quyền cách mạng Đà Nẵng (1). Thật ra toàn bộ quần đảo Hoàng Sa cũng đã được Sở Địa dư Đông Dương/Service Géographique de l’Indochine đưa vào địa phận thành phố Tourane từ tháng 11-1898 trong tấm bản đồ Tourane phát hành tại Hà Nội (2).
Chính quyền Quốc gia Việt Nam và nhất là chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng có những điều chỉnh về địa giới hành chính nội bộ của quận Hòa Vang và của thị xã Đà Nẵng, trong đó nổi lên là việc chia quận Hòa Vang thành quận Hòa Vang và quận Hiếu Đức vào giữa năm 1958, là việc chuyển một số xã của quận Hòa Vang về trực thuộc thị xã Đà Nẵng, chẳng hạn năm 1958, cơ quan quận lỵ của Hòa Vang đóng tại xã Hòa Thuận nhưng đến cuối năm 1961, đầu năm 1962 chuyển về đóng tại xã Hòa Thọ (nay thuộc phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ). Đối với quần đảo Hoàng Sa, ngày 22-10-1951, Thủ hiến Trung Phần Việt Nam Trần Văn Lý đã ký Tư văn mật số 1403-VP/PC/M đề nghị sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào Thị xã Đà Nẵng, nhưng đề nghị này đương thời chưa được Chính phủ Quốc gia Việt Nam giải quyết.
Đến ngày 13-7-1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh số 174-NV, với nội dung: “Quần đảo Hoàng Sa, trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam; Một đơn vị hành chánh xã bao gồm trọn quần đảo này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang”(3). Đến ngày 21-10-1969, Tổng trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm ban hành Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam (nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng), kèm theo một bản đồ địa giới xã Hòa Long mới - cũng có thể gọi đây là động thái “kéo Hoàng Sa vào đất liền”.
Những cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hàn
Cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hàn là cầu Maréchal De Lattre De Tassigny, thường gọi là cầu De Lattre dài 520m do hãng Eiffel của Pháp thiết kế và xây dựng vào năm 1951(4). Cây cầu thứ hai bắc qua sông Hàn là cây cầu dã chiến mang tên Nguyễn Hoàng/Nguyễn Văn Trỗi xây dựng vào nửa sau thập niên 1960. Cầu Nguyễn Hoàng/Nguyễn Văn Trỗi không phải là cây cầu đầu tiên bắc qua sông Hàn như cầu De Lattre/Trình Minh Thế/Trần Thị Lý nhưng là cây cầu tuổi đời lớn nhất đang còn ở lại với dòng sông này. Dẫu được xây dựng lúc người Pháp sắp ra đi như cầu De Lattre, hay lúc người Mỹ vừa mới đến như cầu Nguyễn Hoàng, đương thời cả hai đều là phương tiện phục vụ chủ yếu cho quân viễn chinh xâm lược.
Nhìn chung về hạ tầng đô thị ở vùng đất Đà Nẵng/Hòa Vang từ sau năm 1945 đến năm 1975, có thể thấy ngày càng xuất hiện nhiều công trình dành cho hoạt động quân sự, đặc biệt từ sau khi Mỹ đổ quân vào vịnh Đà Nẵng mở đầu thời kỳ trực tiếp tham chiến trên chiến trường Việt Nam, chẳng hạn như sân bay Đà Nẵng - một sân bay lưỡng dụng nhưng được xem là căn cứ không quân quan trọng của Mỹ trong những năm 1965-1975; như sân bay Nước Mặn cùng bãi đáp máy bay trực thăng trên đỉnh Kim Sơn và sân bay trực thăng trên đỉnh Sơn Trà của quân đội Mỹ từ nửa cuối thập niên 1960; như Trạm Radar Sơn Trà được mệnh danh là Mắt thần Đông Dương bởi tầm quan sát không gian rất rộng, là hai tòa nhà màu trắng hình cầu trên đỉnh núi do người Mỹ xây dựng vào nửa đầu thập niên 1960, trước khi quân viễn chinh Mỹ đổ bộ hồi tháng 3-1965; như quân cảng Đà Nẵng được xây dựng gần cầu Nguyễn Hoàng và cầu Trình Minh Thế...
Tháng 1-1953, Bộ Quốc phòng Pháp chuẩn y xây dựng cơ sở phát điện dành riêng cho quân viễn chinh Pháp tại Đà Nẵng với tên gọi Trung tâm Phát điện của quân đội. Cuối tháng 6-1953, Nhà máy điện Liên Trì được người Pháp khởi công xây dựng tại địa điểm nay là trụ sở Tổng Công ty Điện lực miền Trung (góc đường Duy Tân - Trưng Nữ Vương). Công việc tiến hành dở dang thì Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, phải chấp nhận ký kết Hiệp định Genève chấm dứt sự có mặt của quân viễn chinh Pháp tại Việt Nam.
Do vậy, Nhà máy điện Liên Trì được quân đội Pháp bàn giao cho quân đội Sài Gòn và sau đó quân đội Sài Gòn đã đồng ý cho Công ty SIPEA quản lý khai thác Nhà máy điện Liên Trì trong vòng 20 năm (từ tháng 8-1955 đến tháng 8-1975). Tháng 11-1956, sau khi Nhà máy điện Liên Trì chính thức hoạt động, Công ty SIPEA cho dừng phát điện tại khu vực nhà máy đường Phan Đình Phùng (đã hoạt động từ năm 1922) và chuyển các máy phát điện ở đây vào Nhà máy điện Nha Trang. Kể từ thời điểm này, Nhà máy điện Liên Trì trở thành cơ sở phát điện chính tại Đà Nẵng; khu vực nhà máy đường Phan Đình Phùng chỉ còn sử dụng để làm văn phòng giao dịch(5).
B.V.T
(1)Xem Lưu Anh Rô, Tư liệu quý về việc Thành ủy Đà Nẵng với quần đảo Hoàng Sa, Trang tin điện tử Đảng bộ thành phố Đà Nẵng ngày 17-7-2017.
(2) Xem Dương Thanh Mừng, Hoàng Sa qua tấm bản đồ Đà Nẵng năm 1898, Báo Đà Nẵng điện tử ngày 29-1-2020.
(3) Nguồn: Công báo Việt Nam Cộng hòa 1961.
(4) Cây cầu này hiện nay không còn. Từ năm 2003, 6 năm trước khi khởi công xây dựng mới cầu dây văng Trần Thị Lý thay thế cây cầu Trần Thị Lý cũ, các dầm cầu của cây cầu này được chuyển lên huyện Nam Giang để xây dựng cầu Bến Giằng và vào huyện Điện Bàn để xây dựng cầu Cẩm Lý.
(5) Xem Tổng Công ty Điện lực miền Trung, Điện lực miền Trung - Biên niên sự kiện, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2018 và Công ty Điện lực Đà Nẵng, Điện lực Đà Nẵng những chặng đường phát triển, NXB Đà Nẵng, 2014.