Huỳnh Lê Nhật Tấn sinh năm 1973, sống và làm việc tại Đà Nẵng. Sau hai tập thơ tự do Men da (2009), Que than (2017), anh vừa xuất bản tập sách mỹ thuật Vết căn nguyên và trích từ sách này 28 bức tranh tâm đắc để tổ chức triển lãm cá nhân tại địa chỉ Mây Artspace (36/70 Nguyễn Gia Trí, phường 25, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh), thời gian từ 26-3 đến 3-4.
Tác phẩm Đêm rơi miền vũ trụ, sơn dầu trên bố của họa sĩ Huỳnh Lê Nhật Tấn. Ảnh: LÝ ĐỢI |
Thế giới sáng tạo của Huỳnh Lê Nhật Tấn gồm cả thơ và hội họa. Thơ đến với anh từ khá sớm, trong mỗi bài, qua năm tháng, nó chuyển động dần từ các ý tưởng rõ ràng đến các bài thơ mang hơi hướng siêu thực. Với hội họa, anh chú trọng nhiều đến việc diễn ý, gởi gắm các tình huống hiện sinh và phi lý thông qua các ký hiệu, biểu hiện. Đến những bức tranh gần đây, vẽ trong giai đoạn Covid-19, cũng đã bắt đầu có chất siêu thực.
Dù khác nhau về hình thức biểu hiện, nhưng về tâm thức, đọc thơ của Huỳnh Lê Nhật Tấn làm gợi nhớ đến thi sĩ Nguyễn Lâm (1943-2005), người sớm đưa thơ đến ngưỡng của siêu thực, nơi ý tưởng, âm điệu và ngôn ngữ gần như nhất thể với nhau. Còn xem tranh lại nhớ đến họa sĩ Trần Trung Tín (1933-2008), ông vẽ các tình huống bị chèn ép đến túng quẫn, nhưng vẫn tìm ra một tín hiệu lạc quan nào đó. Cả ba cùng mang lại cho đời một thông điệp, như hai câu thơ của Trần Trung Tín: “Chân lý không bị hành hình/ Cái đẹp không bị vùi chôn...”.
Huỳnh Lê Nhật Tấn bắt đầu vẽ chủ đề Vết căn nguyên từ mùa đông năm 2012. Anh cho biết, bức tranh đó mang tên Ngược chiều kéo dài miên man, từng mảng màu ẩm ướt. Ở tâm trạng sầu não, anh thấy nỗi đau va chạm cuộc đời. Hai khuôn mặt đàn ông, đàn bà hoang dã, con số 6, xoay vòng hoán vị giống nhau, thể hiện tinh thần suy sụp, một dạng thất bại đời sống xã hội biến đổi giới tính. Vài người xem, tán thưởng và thấu hiểu. Từ đó, anh quyết tâm vẽ theo sợi dây đó, đi bấp bênh bằng vết màu đen mang dấu chấm [x]. Nghĩa là phải thấu cảm vấn đề nào đó, rồi tìm ra dấu tích xoi mói như đoản khúc, ý thơ siêu hình vậy, đứng trên trục tung, trục hoành, đường thẳng cong vút in trong trí não.
“Căn nguyên bắt nguồn từ tâm điểm, xoay rộng gieo gì gặp đó, nghĩ gì thì vẽ đó, nghĩa là danh tính người vẽ hiện ra ý tưởng, bắt đầu cho tranh là vết, dấu chấm, nét chấm cọ, vũng sơn đổ tràn lên toan, khoảng trống nằm bất động, bản thảo phơi ý, phút giây chợt hiện... Tôi điên cuồng hình tượng người nông dân, đôi tay anh ta mang bầu hạt giống, khuôn mặt tươi nở nụ cười, gieo rắc mùa màng. Anh mong chờ hy vọng bội thu hay là thất bát. Nó đều bắt nguồn từ hạt giống và thời tiết là căn nguyên. Vậy, tôi vẽ cũng mang cốt ý đó, tâm tánh thể hiện từng bức họa, hàng loạt mệnh đề triết học, chúng là tiêu đề cho từng bức tranh ra đời, mang tên như bài thơ nhiều ẩn dụ: Nhìn sự rỗng không của thế gian, Lời độc địa, Hủy diệt từ lòng bàn tay đen, Những hạt giống nẩy mầm, Vòng roi ngựa, Máu đôi mắt bò tót, Ô vàng trên ngôi vị quyền lực, Vỏ bọc, Vũ trụ nguyên sơ, Trên bàn tiệc, Giọt linh hồn rơi vào đêm, Giao cảm sóng…”, Nhật Tấn bày tỏ.
Nhà phê bình Đặng Tiến nói tranh của họa sĩ Huỳnh Lê Nhật Tấn là dòng tranh sáng tạo và giải thoát, thể hiện những u uẩn của tâm linh, đan xen nhiều khát vọng. Với Tấn, vẽ vừa là sáng tạo, vừa là giải phóng dòng cảm xúc bức bí, tuyệt vọng trước định mệnh của chính mình, của xã hội loài người. "Xem tranh Tấn, tôi không biết Tấn vẽ cho ai? Anh hoàn tất một bức tranh, một họa phẩm, là dành cho mình hay cho người, bởi tranh Tấn không phải là dòng tranh thương mại, dễ nhìn thấy, dễ cảm nhận", ông lý giải.
Không nằm ngoài quan điểm này, họa sĩ Phan Thiết nhận định tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn dẫn ông đến sự liên tưởng sống động gần gũi, nhưng đầy khác biệt, với 3 danh họa Edvard Munch, Vincent van Gogh và Trần Trung Tín... "Xin lưu ý rằng tôi chỉ liên tưởng, chứ không so sánh. Rất hiếm hoi mới có những hoạ sĩ dẫn dắt chúng ta vào bi kịch lạc quan, vào bi quan và tráng lệ như họ, bởi cái họ vẽ ra chính là tâm thần của hiện thực, của thời đại, của con người. Tôi xem, ngẫm về tranh Nhật Tấn và thấy rất rõ ràng trong hình thức biểu đạt một ngôn ngữ diễn biến khôn lường, bất ngờ và liên tục. Màu sắc của bố cục, hình hài, hình tượng thật mạnh mẽ, nhưng cũng thật tĩnh lặng, cô đơn cùng cực, yêu người đến tột cùng", ông nói.
Trong khi đó, nhà thơ Lê Huỳnh Lâm cho hay cảm giác đầu tiên của ông khi xem Vết căn nguyên là dòng tranh của Tấn có màu sắc rất riêng, gam màu blues pha sẩm khi hoàng hôn buông gợi lên trạng thái nửa thực nửa mơ, giữa tĩnh giữa động, giữa buồn và vui. Những cặp đối ngẫu đó hòa trộn để tạo ra thế giới hội họa của họa sĩ Huỳnh Lê Nhật Tấn. Các hình thể trong tranh của Tấn như luôn vận động, chuyển biến để trở thành, nhưng sự vật cứ mãi mãi trở thành thì không biết được cái đích cuối cùng là gì, ở đâu. Vì thế, Tấn để ngõ những khoảng trống lạnh lùng, đậm chất huyền bí trong bức “Gọi hai tiếng âm dương” hoặc “Giai cảm sóng”, “Vết trượt”. Theo ông, không gian trong hội họa thường được thể hiện bởi hình học, luật viễn cận, dựng hình... Nhưng không gian trong tác phẩm của Tấn được biểu hiện bởi sắc độ của màu, cảm xúc dẫn đưa màu sắc đi theo từng nét cọ, ở đó có sự dự phần của ý thức bị ức chế từ các vấn nạn xã hội đang bày biện, khiến cho hình thể trong tranh của Tấn trở nên biến dạng, trừu tượng và siêu thực.
Đặc biệt, những con mắt trong tranh Tấn như diễn đạt cái nhìn sầu thảm tuyệt vọng, thể hiện qua các tác phẩm "Mắt nguyện", "Những hạt giống nảy mầm", "Tia ánh sáng". Không khí trong hội họa của anh gợi lên một nỗi buồn, bởi những vòng cung vô vọng, bởi những bàn tay co quắp, những bước chân hụt hẫng, những con người chưa thành hình, những noãn, tinh trùng bơ vơ lạc lối trong các bức "Đường vay tội lỗi", "Trong bóng tối người và cây"...
LÝ ĐỢI