So với các địa phương khác, Đà Nẵng không có nhiều di sản văn hóa phi vật thể được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Trên lĩnh vực nghệ thuật trình diễn dân gian, thành phố có hai di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia là nghệ thuật Tuồng xứ Quảng và nghệ thuật hô/hát Bài Chòi dân gian.
Chương trình nghệ thuật truyền thống “Hồn Việt” của Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh. Ảnh: T.L |
Sau khi nghệ thuật Tuồng xứ Quảng ở Đà Nẵng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, chính quyền thành phố đã đầu tư “đưa tuồng xuống phố” cũng như đưa tuồng vào trường phổ thông, nhiều nghệ sĩ tuồng quá cố được vinh danh qua việc đặt tên đường và nhiều nghệ sĩ của Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú…
Tuy nhiên việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật Tuồng xứ Quảng ở Đà Nẵng vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn mà trước nhất và lớn nhất là thiếu khán giả, thiếu công chúng yêu tuồng/mê tuồng. Nghệ thuật Tuồng xứ Quảng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia với tư cách là một nghệ thuật trình diễn dân gian, nhưng thật ra Tuồng Việt nói chung/Tuồng xứ Quảng nói riêng không chỉ là nghệ thuật trình diễn dân gian mà còn và chủ yếu là một loại hình trình diễn hàn lâm, chỉ có thể phát huy hết hiệu ứng nghệ thuật khi được biểu diễn trên sân khấu chuyên nghiệp như Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh với đầy đủ đạo cụ, phục trang… cần thiết. Khó có thể hình dung không gian diễn xướng của nghệ thuật tuồng là một sân khấu ngoài trời, thậm chí là một sân bãi ngoài trời. Chính vì vậy chỉ nên xem việc “đưa tuồng xuống phố” như một hình thức quảng cáo/tiếp thị nghệ thuật tuồng.
Một khó khăn nữa là thiếu diễn viên trẻ, nhất là diễn viên trẻ tài năng - đương nhiên đây cũng là khó khăn chung trên phạm vi cả nước. Đặc biệt khó khăn không dễ khắc phục là thiếu tác giả kịch bản tuồng - bởi biểu diễn nghệ thuật tuồng không thể chỉ dựa vào kịch bản tuồng cổ như Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo… mà còn phải cho khán giả tiếp cận và thưởng thức những kịch bản mang hơi thở của thời đại mình.
Nghệ thuật Bài Chòi ở Đà Nẵng cũng được chính quyền thành phố đầu tư đưa Bài Chòi xuống phố, vào trường phổ thông, một số nghệ nhân Bài Chòi đã được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú... Thế nhưng việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật Bài Chòi ở Đà Nẵng cũng đang đứng trước nhiều thách thức đáng kể, chẳng hạn hành trình bảo tồn di sản này hiện nay chủ yếu mới dừng lại ở việc sân khấu hóa và ở nghệ thuật hô/hát, trong khi bản chất của bài chòi là một trò chơi dân gian với những người chơi bài cụ thể ngồi trên các chòi hào hứng thắng - thua, sức hấp dẫn của bài chòi không chỉ nằm ở những lời hô/hát tương thích với mỗi quân bài - điều đó đã đành - mà còn nằm ở sự bất ngờ khó đoán định của các quân bài ấy. Và khó khăn lớn nhất hiện nay là thiếu trầm trọng nghệ nhân và nhạc công.
Trên lĩnh vực nghề thủ công truyền thống, Đà Nẵng có hai di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia là nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước của phường Hòa Hải (quận Ngũ Hành Sơn) và nghề làm nước mắm Nam Ô của phường Hòa Hiệp Bắc và phường Hòa Hiệp Nam (quận Liên Chiểu).
Đối với nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước, việc bảo tồn và phát huy có nhiều thuận lợi, được thành phố quan tâm đầu tư kịp thời, nhất là việc di dời địa điểm mới nhằm bảo đảm sản xuất không gây ô nhiễm. Tuy nhiên khó khăn của việc bảo tồn và phát huy nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước hiện nay là tình trạng sản xuất hàng loạt những sản phẩm tượng đá mang tính thương mại hóa hoặc sản xuất kiểu công nghiệp những sản phẩm tượng bột đá - chứ không phải tượng đá - dẫn đến ngày càng ít đi những sản phẩm tượng thủ công, qua đó thể hiện quá trình lao động “thổi hồn vào đá” của các nghệ nhân.
Việc bảo tồn và phát huy nghề làm nước mắm Nam Ô có lợi thế cạnh tranh trong nước cao. UBND thành phố đã ban hành Đề án Bảo tồn làng nghề nước mắm Nam Ô gắn với phát triển du lịch Đà Nẵng.
Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy nghề làm nước mắm Nam Ô cũng đang phải đương đầu với không ít trở lực mà lớn nhất là số hộ dân còn tiếp tục theo đuổi nghề nước mắm gia truyền không đáng kể. Nguồn nguyên liệu chủ yếu để làm nước mắm là cá cơm than nhiều năm nay cũng có vấn đề khi cá cơm than gần bờ còn rất ít, trong khi số tàu thuyền của ngư dân làng chài Nam Ô đáp ứng yêu cầu vươn khơi không nhiều...
Trên lĩnh vực lễ hội truyền thống, Đà Nẵng có hai di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia là Lễ hội Cầu Ngư và Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn. Việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản Lễ hội Cầu Ngư có một số thuận lợi như tính phổ biến. Bên cạnh đó, chủ thể trực tiếp của lễ hội này vẫn là ngư dân mưu sinh kiếm sống ngoài biển khơi và những làng ngư phủ tuy ít ỏi nhưng vẫn còn.
Việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản Lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1960 càng thuận lợi hơn khi gắn với một trong những trung tâm Phật giáo lớn ở Đà Nẵng và với chùa Quán Thế Âm cùng chủ thể trực tiếp của lễ hội này là đông đảo Phật tử và khách hành hương; càng thuận lợi hơn nữa khi Danh thắng Ngũ Hành Sơn được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch bảo quản, tu bổ, phục hồi danh thắng này, khi UNESCO đã công nhận ma nhai tại danh thắng này là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới khu vực châu Á-Thái Bình Dương vào tháng 11-2022.
Trên đây là tổng quan thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của Đà Nẵng. Mong rằng kết quả nhận diện thực trạng này sẽ trở thành căn cứ để các cơ quan chức năng sớm đề ra giải pháp tháo gỡ, khắc phục.
BÙI VĂN TIẾNG