Tìm được quê nội

.

Sáu mong gặp tôi để biết đôi điều về anh trai là Huỳnh Quang Mãi ở nhà tù Phú Quốc. Tôi về Việt An biết Sáu là phó bí thư chi bộ, trưởng thôn Việt An. Thời đánh giặc Pháp, xã Thăng Phước thuộc huyện Thăng Bình, thời đánh giặc Mỹ, Thăng Phước thuộc huyện Quế Tiên. Ngày hòa bình, Thăng Phước thuộc huyện Hiệp Đức. Lúc ở trong tù, Huỳnh Quang Mãi từng nói với bạn tù anh có người em tên là Huỳnh Quang Chung. Sau ngày hòa bình thống nhất đất nước, một số anh em ở nhà tù Phú Quốc hẹn gặp nhau và cùng về Thăng Phước, huyện Quế Tiên tìm thăm người em của Huỳnh Quang Mãi. Hỏi huyện, hỏi xã không ai biết Huỳnh Quang Chung. Từ đó biệt tin về Chung và Mãi cho đến khi Sáu tìm về quê nội - nơi chôn nhau cắt rốn... 

Nhà tù Phú Quốc, nơi lưu giữ lịch sử hào hùng của dân tộc. Ảnh: phuquocxanh.com
Nhà tù Phú Quốc, nơi lưu giữ lịch sử hào hùng của dân tộc. Ảnh: phuquocxanh.com

Năm 1969, trong một trận chống địch càn vào làng, một số chiến sĩ du kích xã Thăng Phước hy sinh. Huỳnh Quang Mãi bị địch bắt, khai làm giao liên cho bộ đội nên địch đưa về giam ở trại tù binh ở Nước Mặn - Non Nước, Đà Nẵng. Ngày 19-5-1971, chúng còng ba anh em tù binh vào một chùm, kéo lê ra khỏi trại tù, tống lên một chiếc GMC, xe chạy vào miệng chiếc tàu há mồm của hải quân Mỹ đậu ở cảng Tiên Sa, Đà Nẵng. Nằm trong hầm tàu kín bưng, vẫn bị còng năm ngày năm đêm lênh đênh trên biển, ai nấy say mềm, nôn mật xanh, mật vàng. Cập cảng Phú Quốc, sóng mạnh, tàu không vào bến được, chúng cho xà lan kè vào sát thành tàu. Vừa lên bờ, gặp ngay mấy tên trật tự đứng đón. Một tên chỉ hai con đường trước mặt: “Ai chiêu hồi, vào trại giam, theo quốc gia, cũng bị đánh, nhưng đánh ít. Đứa nào không chịu chiêu hồi, bị đánh tới tấp, vào trại giam Cộng sản”. Một tên trật tự ra oai: “Đây là Phú Quốc, không phải đất liền. Liệu hồn nghe các con!”.

Chúng tống anh em lên xe, chở vào khu B.11. Thực thi chủ trương của chủ ngục Phú Quốc in số trên lưng áo tù nhân. Trung sĩ Câu dùng loa gọi Nguyễn Thăng đại diện Khu B11, Lê Thanh - Trưởng phòng thương binh phòng số 1 Khu B.11, đồng thời loa gọi Huỳnh Quang Mãi, người tù nhỏ nhất cùng đến phòng của Trung sĩ Câu. Chúng bắt ba người là Thanh, Mãi và Thăng đứng một hàng trước phòng của Trung sĩ Câu. Câu gọi Thanh bước lại, bảo đưa hai bàn tay úp lên ngang ngực. Trung sĩ Câu cầm cây thước gỗ liêm dài hơn một mét quất bốp bốp năm cái liên tiếp lên mu bàn tay Lê Thanh, bảo ngửa bàn tay ra, hắn quất năm cái liên tiếp. Máu mu bàn tay Lê Thanh chảy tràn hai bàn tay, máu rơi xuống đất.

Sau Lê Thanh, đến lượt Võ Thăng cũng bị quất làm hai bàn tay văng máu, cũng không chịu cởi áo để in số, thì Trung sĩ Câu gọi Huỳnh Quang Mãi lại bảo cởi áo ra in số. Huỳnh Quang Mãi nhìn Lê Thanh, Thanh nháy mắt, ý nói không cởi áo, rồi nhìn Võ Thăng cũng nháy mắt như Thanh. Huỳnh Quang Mãi cởi áo đưa cho Trung sĩ Câu. Trung sĩ Câu bảo mấy tên trật tự in số trên lưng áo của Huỳnh Quang Mãi. Khi Trung sĩ Câu đưa áo bảo mặc vào, Huỳnh Quang Mãi cầm cái áo, nhìn con số 6675 trên lưng áo, đưa mắt nhìn anh em thì, Trung sĩ Câu nạt: “Mặc áo vô mày!”.

Huỳnh Quang Mãi lại nhìn anh em tù, quay qua Trung sĩ Câu, mặt lạnh, xé toạt cái áo, vò vò rồi ném vào mặt Trung sĩ Câu. Lập tức, lính của trung sĩ này  ập vô còng tay Huỳnh Quang Mãi. Chúng thay nhau đá, đạp rồi tống Huỳnh Quang Mãi vào hầm đá. Huỳnh Quang Mãi người còn xương với da nằm chết trong phòng giam. Chuyện diễn ra vào khoảng 2 giờ chiều 27-5-1971.

Mỹ hạ trực thăng xuống làng Phú Toản xúc hết mười mấy hộ dân bám trụ, đổ xuống khu dồn ở ngã ba Phú Bình. Ông Huỳnh Quang Đó không chịu ăn phần lương thực trợ cấp cho bà con bị xúc vào khu dồn mà chúng gọi là phân phát cho những người tị nạn Cộng sản. Ông Đó nói ông làm ăn đóng góp nuôi cán bộ, bộ đội, các con ông là cán bộ, là du kích, các cháu ông, cả cháu nội và cháu ngoại đều bị mồ côi cha, mẹ, ông bị xúc vào khu dồn, sao gọi ông là dân tị nạn! Ông Đó dẫn ba đứa cháu mồ côi ra khỏi khu dồn đi xin ăn.

Dắt ba đứa cháu, xin việc chi làm, không ai nhận. Sau khi cho bớt hai thằng cháu ngoại là Quyền và Ba, ông Đó dắt thằng Sáu xuống chợ Việt An kiếm việc làm nuôi thân và nuôi cháu. Dẫn thằng cháu nội theo, kiếm việc làm cũng không dễ, tội cháu quá, ông Đó nghĩ, thôi cho họ nuôi, hy vọng người ta nuôi cháu tốt hơn, may gặp người tốt bụng có thể họ cho cháu đi học. Đầu tiên ông cho thằng Sáu cho bà Thơm. Nuôi thằng Sáu được hơn một tháng, bà Thơm nói sai chi hắn cũng làm, nói chi hắn cũng nhanh hiểu, kiểu ni lớn chút nữa hắn sẽ bỏ bà, nuôi uổng cơm, bà Thơm trả thằng Sáu cho ông Đó.

Lần thứ hai, ông Đó cho Sáu cho bà Nhứt. Bà Nhứt kêu xe thồ chở Sáu về nhà dưới Hương An. Thấy ông nội nói chi đó với bà Nhứt, Sáu liền tụt xuống xe thồ chạy u lại ôm cứng ông nội. Rồi một hôm, ông nội dắt Sáu đến gần chợ Việt An thì gặp Trần Ngụy - Xã trưởng Quế Thọ - gọi ông Đó bằng cậu. Xã trưởng nói ông Đó cho ai nuôi thằng Sáu thì sẽ nhận ông ở giữ trâu. Đang trong tình thế khó xử thì gặp bà Sáu Có nhận nuôi Sáu. Bà Sáu Có không có chồng, thương người nên nhận nuôi con trẻ bị mất cha mẹ vì bom đạn Mỹ. Nhà cạnh chợ Việt An, bà Sáu Có mở quán bán cơm cho khách và nhận nấu cơm cho lính ngụy. Nhân có mấy người lính ở đồn Cao Lao ra quán ăn cơm, bà Sáu Có nhờ anh trung sĩ viết giùm cái giấy cam đoan ông Đó cho bà Sáu Có cháu nội.

Anh Ba Mãi bị bắt biệt tăm, chị Bốn rồi anh Năm, người bị bom chết, người bị pháo chết, rồi cha chết, rồi mẹ chết. Em sinh năm 1965, ông nội cho em cho mẹ Sáu Có. Nhận em, mẹ nuôi đặt tên khai sinh cho em là Huỳnh Minh Nuôi để có điều kiện cho em đi học. Sáu không tài nào hình dung ra gương mặt của cha, của mẹ, của anh, của chị. Không ai có một tấm ảnh! Sáu chỉ nhớ hai lần gặp ông nội. Lần đầu là hôm ông nội thả bầy trâu ở cánh đồng gần đường, thấy Sáu, ông nội lại ôm Sáu rồi dẫn Sáu xuống quán bà Sữu mua cho Sáu hai viên bi chai. Thấy thằng Xí con bà Tư ăn bánh ít, thèm quá, Sáu đổi cho thằng Xí một viên bi chai, hắn cho cắn nửa cái bánh ít. Lần thứ hai, cũng là lần cuối cùng thấy ông nội, là thời kỳ bị pháo kích, mẹ Sáu Có đưa Sáu lên ở tạm trên nhà bà Hai Phụng. Sáu đang đứng chỗ góc sân thì thấy ông nội vác cây chuối đi ngang qua. Ông nội nói vác chuối về cho bà Ngụy nuôi heo. Ông nội để cây chuối xuống đất nghỉ, Sáu ôm ông nội, hai ông cháu ôm nhau khóc, ông nội đưa cho Sáu hai chục đồng tiền kên.

Sau ngày giải phóng năm 1975, Sáu đã mười một tuổi thì mẹ nuôi mới nói về lai lịch của em, mẹ lục trong rương lấy cái giấy cam đoan của ông nội cho em xem. Nội dung giấy cam đoan: Tôi là Huỳnh Quang Đó, người xã Thăng Phước, cho bà Lý Thị Có cháu nội của tôi tên là Huỳnh Sáu. Tôi viết giấy này để bà Lý Thị Có yên tâm nuôi cháu của tôi như con của bà không ai có quyền can thiệp. Từ cái giấy cam đoan, em biết quê nội Thăng Phước. Em xin mẹ nuôi cho về quê nội tìm người thân thì mẹ nuôi nói người thân của em chết hết còn ai đâu về tìm.

Thế rồi một hôm, thấy bà con trong Bình Huề, Phú Toản ra chợ Việt An nhận gạo cứu đói. Từ chợ Việt An vào đến Phú Toản hơn 16 cây số. Đường đất còn hục hang, cỏ gai, em lội bộ về quê, hỏi thì người trong làng nói với nhau, nếu đúng là cháu nội ông Đó thì là con của ông Huỳnh Quang Đức và bà Trần Thị Chè. Như vậy, Sáu còn người chú ruột là Huỳnh Quang Minh và hai cô ruột là cô Huỳnh Thị Ngộ (bà Ngộ được phong Bà mẹ Việt Nam anh hùng) và cô Huỳnh Thị Sáu. Lúc đầu cô chú chưa thật tin cha mẹ em còn đứa con trai, cô chú hỏi em còn nhớ gì về cha mẹ, anh em, thì em nhắc tên ông nội, kể chuyện ông nội giữ trâu cho xã trưởng Trần Ngụy, thế là cô chú tin. Cô chú nói tưởng tiệt nòi, hóa ra, ông Đó, ông Đức, bà Chè còn có người lo thờ tự, cúng giỗ. Một điều may mắn là khi anh Nguyễn Mậu Kha - một bạn tù của anh Mãi, sau ngày hòa bình làm Trưởng phòng Thương binh huyện Quế Sơn, tìm gặp và cho em biết anh Kha đã làm liệt sĩ cho anh Mãi và giao bằng liệt sĩ cho em thờ.

Ngày 6-10-1978, ông Lâm Sơn Ca, Chủ tịch UBND huyện Thăng Bình ký giấy chứng nhận liệt sĩ và gia đình liệt sĩ cho Huỳnh Quang Mãi, nguyên quán xã Thăng Phước, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Bằng liệt sĩ có quyết định số 559 do Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng ký ngày 30-7-1979, ghi: Huỳnh Quang Mãi tham gia công tác cách mạng tháng 10-1964, là cán bộ giao bưu Huyện ủy Thăng Bình. Hy sinh tại nhà tù Phú Quốc ngày 15-8-1971.

- “Em lấy ngày nào giỗ anh Mãi?”, tôi hỏi. 

- “Theo các anh bạn tù thì anh Ba hy sinh trong đợt đấu tranh, đổ máu diễn ra ngày 27 tháng 5 năm 1971. Nhưng em lấy ngày mất của cha làm ngày giỗ chung cho cha, mẹ, và các anh, chị”.

- “Làm sao em biết ngày cha chết mà làm giỗ?”

- “Theo cô, chú và các vị cán bộ cách mạng xã Thăng Phước thì: Hôm ấy là rằm tháng Mười, mẹ em cúng rằm, mang đồ cúng vào khe cho cha và các đồng chí của cha cùng chống càn trong khe. Mẹ không biết bọn thám báo bám theo chân mẹ, phát hiện ra chỗ cha ẩn núp báo cho lính vào bao vây bắn chết cha, cậu Chát và một số đồng chí của cha. Theo mợ Chát, một hôm, mẹ em nấu cháo bắp cho du kích ăn, mẹ cùng ăn để đi làm chiều thì bị tàu rọ bắn, một du kích bị thương, mẹ bị viên đạn xuyên hông bể bụng nằm quằn quại trước miệng hầm, người dính đầy cháo bắp và máu. Em lấy ngày rằm tháng Mười hằng năm làm giỗ”.

- “Còn ông nội?”

- “Thời gian địch xúc dân Việt An xã Bình Lâm về thôn Sáu xã Bình Dương lập khu dồn thì Xã trưởng Trần Ngụy, Ấp trưởng Trần Tiến là em ruột của Trần Ngụy, đưa gia đình và tài sản xuống Cẩm Hà, Hội An. Ông nội cũng phải lùa hai con trâu của Xã trưởng theo xuống Cẩm Hà. Mẹ nuôi Sáu Có bị tù... từ đó, Sáu biệt tin ông nội. Sau này, Sáu nghe kể lại, ông nội lùa trâu đi ăn thì vấp mìn, cả con trâu và ông nội đều chết. Đã hai lần Sáu xuống nơi từng có khu dồn Cẩm Hà, gần khu vực gạch - gốm Cẩm Hà - nơi ông nội và trâu bị mìn, tìm xác ông nội, nhưng chỉ gặp gạch bể, xương trâu, xương bò, cỏ dại, thép gai và đất đen...”.

- Sáu nói: “Tròn năm mươi tuổi, em vừa hoàn chỉnh lý lịch gia đình. Biết được quê nội. Hai con trai đã có việc làm. Hai vợ chồng chuyển quầy bán cơm bình dân thành quầy bán phụ tùng dân dụng. Vừa nâng cấp được ngôi nhà mẹ Sáu Có để lại, có chỗ thờ trang nghiêm. Thờ cúng cha, thờ hai người mẹ - mẹ ruột và mẹ nuôi, thờ ba anh chị và ông bà. Mai Thị Nga vợ Sáu mở mạng chỉ cho tôi hàng chữ hiện trên màn hình: D3 - H12 - M4, giải thích dãy 3, hàng 12, mộ số 4 - là mộ anh Hùynh Quang Mãi. Tâm nguyện của hai vợ chồng là dành tiền có dịp ra Phú Quốc nhận diện hình ngôi mộ và thắp cho anh Ba Mãi nén hương thơm. 

Bút ký HỒ DUY LỆ

;
;
.
.
.
.
.