.

Người giữ 400 bức ký họa về Trường Sơn

.

Vừa rồi có mấy người khách nước ngoài tìm đến, gạ tôi bán bộ ảnh ký họa vẽ ở Trường Sơn, nhưng tôi không bán. Bán đi là hết, là mất đồng đội. Có khi mình bị bệnh ngớ ngẩn cũng nên, vì sau này muốn tìm lại chẳng có nữa. Người ta sống không phải chỉ cần có tiền, mà cần cả tinh thần nữa. Họa sĩ Đức Dụ tâm sự như vậy khi tôi tìm gặp ông ở làng Ngọc Hà.

Ký họa Trường Sơn của họa sĩ Đức Dụ.

Thời nhỏ, tuy mơ ước không rõ rệt, nhưng Đức Dụ mong muốn sau này mình gắn bó với hội họa, để lưu giữ lại những khoảnh khắc, những cái đẹp cho đời.

Năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam. Đức Dụ trở thành người lính mở đường Trường Sơn ở miền Tây Thừa Thiên. Thấy Đức Dụ say mê vẽ về những sự kiện quan sát được ở tuyến đường, lãnh đạo Cục Chính trị tuyến đường Trường Sơn tạo điều kiện để ông đi vẽ về đồng bào và các sự kiện, phục vụ công tác tuyên truyền. Cũng từ đó, mọi nẻo đường Trường Sơn đều trở nên thân thuộc với ông.

Tuy chưa được học cơ bản về hội họa, vốn chỉ có năng khiếu nhưng Đức Dụ đã khắc họa được không khí sôi động của dân và quân ta bằng màu sắc, càng tăng khí thế đánh giặc.

Ông kể rằng, ngày ấy trên Trường Sơn, không khí mở đường cứ rầm rập. Ông say sưa vẽ cảnh các trọng điểm, đất đá, cây đổ ngổn ngang, cháy trụi mà đoàn xe của ta vẫn xuất kích, hướng về phía Nam của Tổ quốc. Độ đó, binh trạm 42 bị địch đánh phá ác liệt, vì chúng biết đây là nơi chi viện cho thành cổ Quảng Trị. Trung đoàn 5 Công binh cử ông vào các binh trạm làm tuyên truyền. Ở các binh trạm này, ông thường viết tin nội bộ để tuyên truyền, đồng thời vẽ minh họa cho bài viết để lưu hành nội bộ.

Năm 1968 Đức Dụ về Cục Chính trị Bộ Tư lệnh Trường Sơn, ông được cử chuyên đi vẽ ở các binh trạm và khu vận tải, các tuyến đường. Ông đã vẽ với tất cả tâm hồn của người chiến sĩ. Những bức tranh của ông đã được “triển lãm” ngay trên những cây rừng để phục vụ đồng đội và những người làm nhiệm vụ vận tải, mở đường.

Ngày đó, ở làng Tre vùng đồng bào A So, có một ông già, ngoài 60 tuổi đã mù cả hai mắt vì bị địch tra khảo, nhưng vẫn nhờ đứa cháu dẫn đường, cố mang một gùi đạn nặng 60 cân theo đoàn dân công đem đến giao tận tay bộ đội. Hình ảnh cậu bé cầm một đầu cây gậy, còn đầu kia ông già cầm với gùi đạn cõng trên lưng đã khiến cho Đức Dụ vẽ mà tâm trí cứ phân tán trong bao cảm xúc, khiến bức họa không thể diễn tả hết những điều ông muốn nói. Sau đó không lâu, ông già đã bị hổ vồ. Ông kể lại chuyện này mà rưng rưng thương tiếc.

Ở mặt trận Đường 9 - Nam Lào, có lần Đức Dụ đi cùng một đơn vị xe và xuất kích cùng với xe của chiến sĩ Triệu Duy Kéo, gặp quân ta đang đánh điểm cao 416. Họa sĩ Đức Dụ bỏ “đồ nghề” sang một bên, định tham gia chiến đấu cùng đồng đội thì một chiến sĩ hét lên: “Không cần đồng chí đánh nhau. Anh hãy vẽ đi. Lúc này mà anh không vẽ bọn tôi thì còn lúc nào”. Đức Dụ liền ngồi ngay trên đống gỗ cạnh trận địa để vẽ, trong tiếng súng và tiếng thét của pháo trận địa. Bức tranh đó như “bốc cả thiên nhiên Trường Sơn vào tranh” mà ông không thể nào quên được.

Chiến tranh đã qua đi, nhưng những bức tranh của một thời, ghi lại những khoảnh khắc, những sự kiện của những năm tháng chiến trường sẽ theo ông đến hết cuộc đời. Hòa bình lập lại, đất nước im tiếng súng. Ông đã nhiều lần trở lại chiến trường xưa. Ông ngơ ngác tìm lại cảnh xưa và chỉ như vọng lại tiếng đồng đội xung trận, tiếng hò reo của các chiến sĩ mở đường.

Các cuộc triển lãm tranh của ông luôn gắn với những bức vẽ về chiến trường ám mùi thuốc súng, mùi khét lẹt của những khu rừng nhiệt đới cháy trụi đen đúa bởi chất độc hóa học của kẻ thù. Những người yêu tranh trong và ngoài nước, nhất là các cựu chiến binh, khi đứng lặng trước những bức họa Cua chữ A, Bắn máy bay, Đội điều trị binh trạm 33 (1969), Bốc hàng trong chiến dịch, Tổ trực chiến trên cao điểm Suối Trăng (1971), Trọng điểm Tha Mé… họ luôn được gặp lại hình ảnh của mình trong quá khứ hào hùng. Trong một triển lãm, có bà mẹ đứng trước bức Cua chữ A, khóc mà nói rằng “Con trai tôi đã hy sinh ở đây..”, bà vừa nói vừa lần hồi bàn tay trên bức tranh, làm rất nhiều người có mặt tại phòng tranh hôm đó xúc động.

Triển lãm tranh về Trường Sơn, Đức Dụ muốn thể hiện nỗi nhớ về đồng đội, và để những cựu chiến binh tìm lại một thời đáng nhớ của mình. Ông nghĩ sâu sắc: mình là người đã viết nhật ký chiến trường bằng tranh, thì phải công bố nhật ký cho đồng đội biết.

Chuyện mấy khách nước ngoài đến gạ mua tranh nhưng Đức Dụ không bán, tưởng chỉ vài anh em họa sĩ biết, nào ngờ lại đến tai Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, nguyên Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn. Ông gọi cho Đức Dụ hỏi: “Chú định bán đồng đội hả?”. Đức Dụ thót tim, thưa lại vị thủ trưởng cũ: “Không, em đâu dám bán. Họ trả giá cao lắm nhưng em dại gì”. Lúc đó, vị Trung tướng mới thở phào. Kỷ niệm vui đó, người họa sĩ của chiến trường xưa luôn nhắc đến, như để khẳng định thêm hành động từ chối bán tranh của mình là vô cùng hợp lý. Vì điều này mà đồng đội ông quý mến, càng cảm thông với ông hơn.

Nhắc đến 400 bức ký họa về Trường Sơn sau 8 năm âm thầm làm nhiệm vụ ở đường Trường Sơn, ông nói, thực ra, đây là kho tư liệu quý mà mình may mắn có được. Chỉ cần nhìn lại những bức tranh này, là ông và đồng đội hình dung ra nó được vẽ ở đâu, về vùng đất nào và bối cảnh khi đó của nó.

Nghỉ hưu năm 1990, ông về sống ở làng Ngọc Hà, vẫn say sưa đi và vẽ, cả về Trường Sơn và phong cảnh quê hương. Nhìn khuôn mặt ông, tôi nhận ra rằng, ông hoàn toàn thỏa mãn với công việc của mình. Bởi ông là người lính, là một nghệ sĩ và sống nặng lòng với ký ức, với quá khứ, với Trường Sơn rực lửa.

Họa sĩ Đức Dụ sinh năm 1946, tại Đồng Quang, Gia Lộc, Hải Dương. Vào chiến trường năm 1965. Năm 1973, ông trở ra Bắc, học Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội.

Năm 1978, ông tốt nghiệp và về công tác ở Bảo tàng Hậu cần, tiếp tục vẽ tranh và vào Hội Mỹ thuật năm 1980. Ông đã tổ chức 10 cuộc triển lãm, trong đó, có 8 triển lãm tranh về Trường Sơn.  

NGUYỄN VĂN HỌC

;
.
.
.
.
.