Bên cạnh những con đường, những dãy phố sầm uất, dưới chân những chiếc cầu bê-tông, cầu dây võng hiện đại ở Đà Nẵng là những khúc sông, mặt vịnh suốt bốn mùa lao xao sóng nước. Ở đó, mỗi ngày có hàng chục con người đủ mọi lứa tuổi – từ sáng tinh mơ cho đến xế chiều, bất luận nắng mưa, họ cần mẫn ngâm mình dưới dòng nước đục để mò nghêu kiếm sống, bất chấp mọi hiểm nguy đang chực chờ.
Nhiều người phải kiếm sống bằng nghề mò nghêu. |
Chỉ cách chiếc cầu dây võng Thuận Phước độ vài mươi bước chân, trong cái nắng oi ả đến nhức mắt, tôi đã gặp và trò chuyện với những người ngày ngày vẫn thường đến đây, ngâm mình trong dòng nước để mò nghêu kiếm sống. Vợ chồng chị Lê Thị Bảy, trú phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, là một trong số những người có thâm niên làm nghề mò nghêu ở vùng này. Chị Bảy cho biết: Vào mùa nghêu nhiều, mỗi ngày hai vợ chồng chị chăm chỉ mò cũng được gần chục ký lô, mỗi ký nghêu thời giá hiện tại gần 30.000 đồng (vùng Vịnh Đà Nẵng chủ yếu là nghêu non, bắt bán cho chủ bãi nghêu làm giống - NV). Những thời điểm khan hiếm nghêu non thì mỗi ngày chỉ mò bắt được đôi ba ký là nhiều. Ở đây có nhiều người đi mò nghêu non như anh chị không? Tôi hỏi. Nhiều - chị Bảy đáp. Từ vùng cầu Thuận Phước này kéo dài đến Xuân Thiều, mỗi ngày bình quân cũng có vài chục người làm nghề mò nghêu. Già trẻ, lớn bé đều có cả. Nói chung là những người nghèo, không có nghề nghiệp ổn định, nên phải chọn nghề này để làm kế mưu sinh...
Thấy tôi đứng nói chuyện với chị Bảy, nhiều đứa trẻ độ mười ba, mười bốn tuổi, mỗi đứa trên tay cầm một cái bao cũng hiếu kỳ chạy lại. Tôi quay sang hỏi: Các cháu cũng đi mò nghêu à? Tất cả đồng thanh trả lời: Dạ...
Chị Bảy chỉ cho tôi từng đứa, rồi giới thiệu về gia cảnh của chúng. Nhìn những mái tóc đỏ hoe, làn da sạm nắng của những đứa trẻ ngày ngày phải dành thời gian rảnh rỗi để mò nghêu non mang bán kiếm tiền giúp gia đình chi tiêu trong cuộc sống, tự dưng tôi thấy chạnh lòng cho cái tuổi ăn, tuổi học, tuổi được nâng niu chiều chuộng mà các em phải sớm dấn thân vào guồng quay kiếm sống đầy nắng nôi, rét mướt này...
Thấy vợ vẫy tay, chồng chị Bảy xốc lại bao nghêu non đã bắt được rồi rẽ nước lên bờ.
Được nhiều không anh? Tôi hỏi.
Có những cụ bà đã ngoài thất thập vẫn ngày ngày ngâm mình cào nghêu kiếm sống. |
Mùa này ít lắm, với lại nghêu bị chết cũng nhiều nên thấy vậy chứ đến lúc lựa lại chẳng được là bao. Vừa trả lời tôi, chồng chị Bảy buồn buồn kể chuyện: Ngày trước, vợ chồng cũng là công chức, khi đất nước chuyển sang thời kỳ mới với nhiều yêu cầu, đổi thay về năng lực, trình độ. Vả lại công ty lúc đó làm ăn thua lỗ kéo dài nên giải thể, chế độ cũng chẳng được bao nhiêu, việc làm không kiếm được, nên mình phải gặp cảnh long đong, lận đận... Cái nghề mò bắt nghêu này cũng đến với gia đình như một tình cờ của số phận thôi. Lúc đầu do gia cảnh túng bấn, mình đi mò bắt nghêu về để cải thiện thêm bữa ăn. Vào vụ nghêu sinh sản nhiều, bắt về gia đình ăn không hết, mẹ chúng nó mới mang ra chợ bán cho đỡ tiếc. Thấy cũng có đồng ra, đồng vào, vậy là vợ chồng bắt tay với nghề này từ đó cho đến nay...
Ngược dòng sông Hàn một đoạn không xa, ngay khu vực dưới chân cầu Tuyên Sơn cũng là địa chỉ kiếm sống của khá nhiều người dân đang cư ngụ tại phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn. Cứ sáng sáng, những người dân trong phường lại lục tục đạp xe cùng nhau nhằm hướng bờ sông mà tiến. Dụng cụ hành nghề của họ cũng vô cùng đơn giản, chỉ có cái thau, cái rổ, một cái cào tay, một cái bồ hụp làm bằng thanh tre có miếng tôn mỏng uốn hình chữ U (dùng để cào vét - thường chỉ những người đàn ông có sức khỏe mới sử dụng-NV). Đến bờ sông, mỗi người chia nhau một hướng, ngâm mình xuống dòng sông để kiếm tìm sự sống hằng ngày. Những người có thâm niên mò bắt nghêu ở đây (Nghêu ở đoạn sông này là nghêu đã trưởng thành, nên bắt về chỉ bán cho người sử dụng-NV) cho biết: Ngày trước, vùng này rất nhiều nghêu, mỗi ngày siêng năng có người mò bắt được cả tạ, giá cả cũng được, nên có nhiều gia đình nhờ nghề bắt nghêu này mà có cái ăn, cái mặc, có tiền để mua sắm đồ đạc, lo cho con cái học hành. Bây chừ giá nghêu cao, nhưng đổi lại thì nhiều người đi bắt nên thu hoạch tính bình quân đầu người không nhiều. Nói chung là một ngày làm chỉ đủ chi tiêu trong gia đình ở mức tiết kiệm.
Anh Nguyễn Văn Hùng, một trong số những người làm nghề bắt nghêu lâu năm ở phường Khuê Mỹ kể rằng: Cực chẳng đã, chẳng biết làm chi mới chọn nghề này kiếm sống. Anh thấy đó, giữa một biển nước mênh mông như thế, có ai biết điều gì đang chực chờ giáng xuống số phận của mình. Nhiều người ở đây, trong lúc mò nghêu đã dẫm phải dây thép gai, mảnh chai, cọc nhọn… Mùa mưa gió, có ngày con nước lên cao, dòng chảy mạnh nó lùa cả thân người mình đi ra xa trong tình cảnh chới với…Thanh niên trai tráng như tụi em còn đỡ, chứ như cô Ba, cô Chín đang mò ở đằng kia đó, đã trên bảy mươi tuổi rồi mà ngày nào cũng phải ngâm mình trong nước lạnh, dưới nắng nóng đến vài giờ đồng hồ. Có người khi đưa mình lên được khỏi mặt sông là toàn thân tê cứng, bước đi xiêu vẹo, thậm chí ngất lịm vì đói và mệt…
Sao không chọn việc khác để làm? Tôi hỏi.
Chị Mai Thị Mỹ ở tổ 3, phường Khuê Mỹ nói rằng: Biết là nguy hiểm, làm nghề này sức khỏe mình sa sút rất nhanh, nhưng biết làm gì bây giờ, chỉ có nghề mò bắt nghêu là không cần vốn, ngày nào bắt được nhiều thì được nhiều tiền, ngày nào bắt được ít thì ít tiền, những lúc đau yếu nằm bẹp ở nhà thì thôi… Khổ lắm, nhưng không làm thì biết lấy gì để sống, trong khi gia đình lại có đến năm, sáu miệng ăn…
Tôi đem chuyện những người phụ nữ ngày ngày phải ngâm mình trong nước để mò bắt nghêu kiếm tiền sinh sống kể với một người bạn là bác sĩ đang công tác ở Khoa sản Bệnh viện Đà Nẵng. Như đặt vấn đề đúng chỗ, bạn tôi buồn buồn nói rằng: Đàn ông còn đỡ chứ chị em phụ nữ, bất kể trẻ hay già làm nghề này đều mắc bệnh phụ khoa hết. Có người khi đau quá mới tìm đến bệnh viện mới hay là bệnh đã quá nặng. Họ là những người nghèo, vì thế hằng ngày việc họ quan tâm nhất là tìm kiếm cái ăn, cái mặc, chứ thì giờ đâu nghĩ đến chuyện bệnh tật, chuyện phải đi khám bác sĩ để có lời khuyên chữa trị.
Chúng tôi lại nghĩ về một tương lai không còn xa nữa, những tổ chức xã hội sẽ cùng với địa phương sắp xếp cho những con người nghèo khó này có cơ hội học nghề và hành nghề; các quỹ xóa đói giảm nghèo cần quan tâm nhiều hơn đến họ, để họ sớm từ bỏ cái nghề nhiều rủi hơn may này…
Phan Bùi Bảo Thy