Dân tộc thiểu số đông nhất Việt Nam
Trang phục phụ nữ Tày. (Ảnh: laocai.gov.vn)
|
- Trong số các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, đông nhất là người Tày. Người Tày còn có một số tên gọi khác như Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, Pa Dí. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tày ở Việt Nam có dân số 1.626.392 người, là dân tộc có dân số đứng thứ hai tại nước ta, sau người Kinh. Người Tày chủ yếu cư trú tại các tỉnh trung du và miền núi phía bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Quảng Ninh và một số vùng thuộc Bắc Giang. Gần đây, người Tày còn di cư tới một số tỉnh Tây Nguyên như Đắk Lắk, Lâm Đồng.
Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai... và rau quả mùa nào thức đó. Người Tày sống định cư, quây quần thành từng bản chừng 15 đến 20 hộ, có quan hệ gần gũi với người Nùng và người Choang (Trung Quốc). Bản thường được lập ở chân núi hay ven suối, tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà. Bản lớn chia ra nhiều xóm nhỏ.
Gia đình người Tày thường quý con trai hơn và có quy định rõ ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Vợ chồng yêu thương nhau, ít ly hôn. Ðã từ lâu không còn tục ở rể.
Người Tày mến khách, cởi mở, dễ làm quen và thích nói chuyện. Họ rất trọng người cùng tuổi, khi đã kết nghĩa bạn bè thì coi nhau như anh em ruột thịt, bà con thân thích của mình.
Trang phục Tày độc đáo, có phong cách mỹ thuật với lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất cả nam và nữ, mặc áo lót trắng bên trong áo màu chàm. Một số tộc người còn gia công trang trí các màu khác trên trang phục màu chàm, sử dụng màu ngũ sắc trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm. Riêng nhóm Pa Dí (Lào Cai) có phong cách tạo dáng và trang trí khá độc đáo ở lối đội khăn và y phục.
Trung phục nam giới thường là áo cánh 4 thân (slửa cỏm) - loại áo xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, có hai túi nhỏ dưới hai thân trước, cài cúc vải. Trong dịp tết, lễ hội, mặc thêm áo dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa) cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt theo kiểu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá, chân đi giày vải. Khăn đội đầu màu chàm quấn trên đầu theo lối chữ nhân.
Trang phục nữ giới có áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội đầu, hài vải. Áo cánh là loại 4 thân xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi nhỏ phía dưới hai vạt trước, thường được cắt may bằng vải chàm hoặc trắng, khi đi hội thường được mặc lót phía trong áo dài. Vì vậy người Tày còn được gọi là cần slửa khao (người áo trắng) để phân biệt với người Nùng chỉ dùng màu chàm.
Trước đây phụ nữ Tày mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần, loại quần được cắt may giống nam giới nhưng hẹp hơn. Khăn phụ nữ Tày cũng là loại khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu “mỏ quạ” của người Kinh. Trang sức phụ nữ Tày đơn giản song có đủ các chủng loại cơ bản như vòng cổ, vòng tay, vòng chân, xà tích... Có nơi còn đeo túi vải.
Người Tày thờ tổ tiên và bái vật giáo. Bàn thờ tổ tiên của người Tày đặt chính giữa nhà và làm thành một không gian riêng và được cung kính hết mực. Khách và phụ nữ trong nhà chửa đẻ không được phép ngồi hay nằm trên ghế, giường trước bàn thờ. Họ thường dùng bữa sau 2 giờ chiều và 8 giờ tối. Trong tôn giáo của người Tày, ngày 3-3 âm lịch là ngày tảo mộ, ngày lễ quan trọng nhất của họ.
ĐNCT