Làng Cẩm(*) nằm giữa lòng sông Thu Bồn, từ thuở xa xôi chỉ là một cồn bãi, người dân quanh đó, ban đầu đến trồng, tỉa, cào hến và đánh bắt tôm, cá để kiếm ăn. Dần dần phù sa mỗi năm tụ lại một nhiều và cao dần lên, để thuận tiện cho việc làm ăn, sinh sống, họ định cư lại đây, rồi sinh con, đẻ cái biến thành làng sau nhiều đời sinh sống.
Làng đã nghèo, mỗi năm lại một mùa lụt, hết lụt lớn kéo ra đến lụt nhỏ kéo vào, nhà cửa cả làng phần lớn làm bằng cây tre và lá dừa nước. Mỗi năm làng sống chung với lụt một mùa. Có những năm, lụt cứ đùa dai với làng, nên chẳng còn cây gì để ăn khi nước rút đi, mươi mười ngày sau, chỉ có loại rau quéo chui từ lớp đất bùn dày trồi lên. Thế là đủ để cả làng đi hái. Rau quéo luộc chấm với mắm cái thật là khoái khẩu trong những ngày rả lụt.
Đất nước trong thời có chiến tranh, làng ở trong vùng chiến sự. Đạn pháo lớn rồi đến bom giặc đổ xuống. Máu đã thấm trên đất làng. Lớp trai trẻ lên đường cầm súng chống giặc, bỏ lại ước mơ đèn sách. Người lớn cần cù một nắng hai sương vẫn chưa đủ, ban đêm còn đi đánh bắt cá, tôm để kiếm cái ăn, cái mặc, vất vả quanh năm suốt tháng.
Trong hoàn cảnh còn nghèo khó đó, người làng Cẩm đã chung tay, góp sức gầy dựng được một trường tiểu học từ rất sớm, để bầy trẻ có điều kiện đến trường kiếm cái chữ. Chắc cũng vì thực tế đó, các cụ đặt tên làng là Cẩm, theo nghĩa Hán-Việt có nghĩa là “gấm”, gửi lại khát vọng tương lai cho con cháu biến vùng đất nầy giàu đẹp như gấm, như hoa.
Hồi đó sách giáo khoa không thay đổi nhiều như bây giờ. Anh học xong để dành lại cho em.
Nó là anh đầu của một gia đình có tám anh em. Nó giữ sách như một gia tài. Khi có lụt về ở triền sông, việc đầu tiên là nó đem tất cả sách vở bỏ vào bao, buộc lại rồi treo lên xà nhà. Khi cơn lụt rút ra, nó lại nới dây buộc đưa bao sách trở xuống, đặt lại vào kệ sách. Có những lúc lụt dâng lên cao quá, nó mang bao sách bỏ xuống ghe, cùng cả nhà bơi đến trú tạm ở những nhà cao hơn. Phải chăng, vì thấy nó mê sách, muốn nó có thói quen đọc sách hay vì chẳng có tiền nhiều để mua các thứ khác, ba nó thường cho nó sách, phần lớn là sách cũ mà ông tìm được.
Khi nó vào lớp năm, một hôm đến giờ văn cô giáo ra đề “Lời tâm sự của một cuốn sách cũ”. Nó mang tất cả những kỷ niệm, những hình ảnh, những cảm xúc chân thành của nó đối với những quyển sách cũ, gắn liền với quê nhà và hoàn cảnh của nó như máu thịt. Sách theo nó đi ra đồng, ngồi trên lưng bò, xuống dưới hầm sâu hay những đêm yên ắng cùng với ngọn đèn tù mù, lúc theo ghe trôi trên dòng nước khi lụt về…
Đến giờ văn, cô giáo trả bài cho lớp, bài văn của nó cô giáo giữ lại và đọc cho cả lớp nghe. Cả lớp lặng thinh xúc động. Đó là lần đầu tiên kể từ khi đi học nó có giờ văn hạnh phúc nhất. Sau khi đọc xong bài văn, cô gọi nó lên bảng, nhưng thật bất ngờ, cô kết luận:
- Đây không phải bài văn của em, ở tuổi em không thể có
cảm xúc như người lớn được, ai làm giúp em bài này?
Ai có thể giúp nó? Ba nó đi làm thợ ở xa, má nó phải chạy chợ từ sáng sớm tinh mơ cho đến tối mịt mới về, phải vất vả lắm mới nuôi nổi lũ con. Vả lại, cả hai người cũng chỉ tự học để biết đọc, biết viết mà thôi. Nó chưa có tuổi thơ theo nghĩa đầy đủ, mới học lớp năm nhưng ở nhà nó đã quán xuyến việc gia đình, dạy cho các em học, vườn tược, lợn, gà… Nó đã trở thành người lớn khi tuổi còn con nít. Nghĩ vậy nên nó òa khóc, không một lời thanh minh.
Bài văn chưa được chấm điểm. Mấy ngày sau, cô giáo bất ngờ đến thăm nhà nó. Nó đang cặm cụi sắp xếp những quyển sách cũ, với tâm trạng như muốn chia sẻ lại những điều gặp trên lớp với chúng. Hôm sau giờ văn lại đến, cô giáo nói lại với lớp học những cảm nhận khi đến thăm nhà nó, cô cho những điều nó mô tả trong bài văn rất thực, những xúc cảm như vậy là rất chân thành, “cái gì xuất phát từ trái tim sẽ đi tới trái tim” cô giáo dẫn chứng. Nó từ trạng thái rất sung sướng đến khổ đau và bây giờ là niềm vui và nỗi buồn lẫn lộn... Chẳng hiểu lúc đó vì thương cho hoàn cảnh nó mà động viên cho nó học tập, hay vì lý do nào trong sâu thẳm, cô giáo nói :
- Nếu tiếp tục cố gắng em sẽ trở thành nhà văn.
Má nó kể rằng khi đến ngày thôi nôi, bà nội nó bỏ dưới giường nằm đủ thứ đồ chơi trẻ con, các dụng cụ học tập, dụng cụ thô sơ của một số nghề mộc, nghề nề… Nó bò vào và chọn lấy cây thước. Má nó bảo nó sẽ trở thành thầy giáo. Ba nó bảo nó có năng khiếu về kỹ thuật. Ông bà nó bảo sẽ trở thành thầy thông, thầy ký. Ai có ước vọng gì mà chưa làm được thì gán hết cho nó, nhưng chẳng ai bảo nó trở thành nhà văn, nhà thơ cả.
Hè năm đó, nó thi đỗ vào một trường phổ thông trung học công lập có danh tiếng trên thị xã. Nó chỉ thích các môn khoa học tự nhiên.
Những năm tháng là sinh viên, nó vẫn tìm đến những chỗ bán sách cũ, mua thì ít mà đọc thì nhiều. Các chủ sách ban đầu cảm thấy khó chịu với một khách hàng “ma ám” như nó, nhưng lâu dần cũng thấy thông cảm, có người còn thuộc tính, thuộc nết, biết nó cần loại sách nào, nên để dành cho nó.
Nó đã lập thân, lập nghiệp bằng các nghề khác nhau, ngoại trừ nghề văn. Thế mà, khi đã bước vào cái tuổi thành đạt của một đời người, nó lại khởi nghiệp cầm bút…
HUỲNH VIẾT TƯ
(*) Làng Cẩm bây giờ lên phường Cẩm Nam, thành phố Hội An.