Dạo ấy được làm quen với các nhà thơ tên tuổi như Xuân Diệu đâu phải dễ. Những năm cuối thập niên 60 và đầu 70 thế kỷ 20 tôi là cán bộ tuyên truyền của Tổng cục Lâm nghiệp do ông Nguyễn Tạo làm Tổng cục trưởng. Có lần tôi được ông Tạo cử đến nhà Xuân Diệu để mời ông vào ban giám khảo cuộc thi thơ, văn viết về ngành Lâm nghiệp.
Nhà thơ Xuân Diệu. |
Khi đến cửa số nhà 24 phố Cột Cờ - nhà của Xuân Diệu (hồi đó phố chưa mang tên Điện Biên Phủ), tôi cứ thấy người run run thế nào ấy. Tôi kéo dây chuông, một lát, thấy một anh thanh niên gầy gò đi ra mở cổng, giọng miền trong: “Anh hỏi ai?” “Dạ, tôi có thư gửi bác Xuân Diệu ạ” “Vậy mời anh vào”. Nghe câu này người tôi như được trấn tĩnh lại, rồi theo anh ta đi vòng sân sau vào phòng ở của Xuân Diệu.
Phút đầu tiên gặp nhà thơ, tôi ngỡ mình nằm mơ chứ đâu phải sự thật, Xuân Diệu đây rồi, ông đeo cặp kính tròn xoe, trễ xuống xống mũi, đôi mắt trắng đục, ông thật giản dị trong chiếc quần “pizama” và áo may ô không lấy gì làm trắng lắm. Tay cầm sách, rồi ông nhìn tôi nhỏ thó, gầy gò, chợt bảo: “Chú là Trường phải không?” (ông gọi Trường chứ không gọi Trương), nghe xong tôi cũng gật đầu: “Thưa bác vâng ạ”. Tôi chưa kịp nói gì, Xuân Diệu đã nói luôn: “Này anh đừng gọi tôi bằng bác nhé, anh coi tôi già lắm sao? Lần sau gọi bác là khó gặp nhau đấy”. Xuân Diệu bảo lần sau gọi là anh xưng em nhé - Anh Xuân Diệu, chứ không phải bác Xuân Diệu. Từ lúc vào đến giờ tôi cứ đứng hoài nghe ông “triết lý”, chẳng dám ngồi, lát sau ông mới kéo chiếc ghế mây bảo tôi ngồi, và cầm thư đọc. Đoạn ông ngước lên, nói: Mình đồng ý nhận lời với anh Tạo, sẽ tham gia ban chung khảo cuộc thi văn thơ này. Không phải cam kết gì cả cứ cho đăng báo tên anh trong ban chung khảo.
Tôi mừng quá, thế là mình đã hoàn thành một nhiệm vụ tưởng như khó khăn vô cùng. Trước khi ra về, tôi mạnh dạn đính chính tên mình với nhà thơ, dạ thưa anh, em là Trần Trương chứ không phải Trường đâu ạ. Xuân Diệu vỗ vai tôi vẻ thân ái: Được thì Trương, em Trương và anh Xuân Diệu. Lúc này đứng gần nhà thơ lớn mà mình cứ ngỡ mình oai lắm, và đã thành nhà thơ rồi!!!...
Từ sau cái buổi ban đầu “lưu luyến ấy” tôi luôn được gặp Xuân Diệu ở nhà riêng và ở trụ sở 65 Nguyễn Du. Cuộc thi Thơ Văn viết về ngành Lâm nghiệp ngày ấy rất có tiếng tăm, bởi Ban giám khảo (BGK) toàn là những tên tuổi “sừng sỏ” như Quang Dũng, Hoàng Trung Thông, Xuân Diệu, Xuân Trình, Nguyễn Tuân… Tôi là thư ký của ban tổ chức cuộc thi này, nên hằng tuần luôn phải liên lạc với các thành viên BGK, đặc biệt là Xuân Diệu. Với ông tôi thấy yên tâm và gần gũi. Nguyễn Tuân nghiêm trang lạnh lùng. Hoàng Trung Thông ngay ngắn, đĩnh đạc, quan chức. Xuân Trình nguyên tắc. Quang Dũng lãnh đạm và khinh khi. Chỉ có Xuân Diệu là luôn luôn trò chuyện. Có lần mời ông đi nói chuyện thơ, ông bảo tôi, em phải quan sát cho anh xem hội trường có nhiều phụ nữ không, và bao nhiêu nam giới, bao nhiêu cán bộ, bao nhiêu thanh niên để ông chuẩn bị nội dung và chọn các bài thơ để giảng giải.
Mấy lần tôi phải đèo ông đi bằng cái xe Thống Nhất của tôi, ông thì to, mà tôi thì gầy bé, song vẫn đèo ngon lành. Ngồi phía sau ông cũng giảng giải thơ cho tôi nghe. Nào là em đọc thơ anh phải chú ý cái tiếng vang của từ, cái sắp đặt của tứ, ví như bài “Ngói mới” ấy, bài thơ sắp xếp câu loi thoi lên xuống, là hình tượng của những lớp ngói lô xô chạy giăng hàng, viên trên viên dưới là hình dung ra cả cái mái nhà đỏ au mà như những đứa trẻ giang tay vui đùa, chứ đọc lướt là chẳng hiểu gì đâu. Tôi nghe như vỡ vạc ra, mà thấy câu nói của ông chí lý làm sao.
Lại có lần ông bảo: tả cái hạn hán mà cứ mãi “đồng đất nứt nẻ chân chim” thì cũ rồi. Em quan sát nhé, đồng thì hay có đỉa, mà hạn khô đỉa cũng không sống nổi nó ngoi lên qua mô đất đã chết ngoẻo, thế là ta có câu: Con đỉa vắt ngang mô đất chết. Sống dai như đỉa mà cũng chết thì phải hiểu cái hạn hán ở quê là ngặt nghèo thế nào!
Đèo xe Xuân Diệu vài lần mà đã như là thân thiết lắm rồi. Tôi mạnh dạn hỏi ông: Cuộc thi Thơ lần này, chấm ai được giải nhất? (tuy có chân trong ban tổ chức, nhưng khi họp kín để giải trình bỏ phiếu chấm giải tôi không được dự). Chẳng câu nệ gì, Xuân Diệu nói luôn: Đáng lẽ VQP được giải nhất, nhưng đọc kỹ thấy bài thơ 5 chữ này có tứ hay, cảm động nhưng đọc kỹ nữa lại thấy anh ta làm thơ “có nghề” như một người thợ khéo, vì thế BGK quyết định trao giải ba!
Nói đoạn, Xuân Diệu ngừng một lát, rồi bảo tôi: Bài khúc hát người thợ rừng của em kể lể, dàn trải, chỉ có bài “Bóng rừng” là được hơn cả, BGK quyết định cho giải khuyến khích, song anh đề nghị cho giải ba, bởi lẽ em làm việc rất tích cực, chăm sóc BGK tận tình, nhất là việc đưa đón anh bằng xe đạp của em nhiều lần, nên anh cũng thương và đề nghị tuyên dương em, và nên trao giải ba… để khuyến khích, động viên em làm thơ tốt hơn, và đấy chính là khuyến khích rồi! Bởi ngoài thơ thì còn phải là tình đời, tình người nữa chứ. Nhưng em nhớ là… thơ không có thứ hạng theo giải đâu, cái đạt được của thơ đấy là luôn luôn chuyển tải được cái cuộc sống mà mình đang sống ấy. Sống rồi ghi, ghi rồi viết, không cần cầu kỳ, nhưng cũng đừng dễ dãi.
Nghe Xuân Diệu nói, tôi cứ “ngửa cổ” mà nghe, không hỏi han gì, và ông nói có lý nên sau này tiếp xúc với ông mình thấy quí ông như người thầy và như một tấm gương cho mình lao động, tự mình vươn lên. Sau này chơi thân với nhà văn Hữu Nhuận (được Xuân Diệu cho ở cùng một căn buồng nhỏ) tôi thường xuyên đến nhà ông để nghe nói chuyện đời và thơ. Dần dà, ông cũng coi tôi như một người thân và thỉnh thoảng còn cho sách cho quà.
Năm 70 tôi cưới vợ, ông đến ăn cơm với gia đình. Ông tặng tôi một cái bật lửa “con bướm” và một ống nước hoa nhỏ, ông bảo: Anh cho em cả hương thơm và lửa ấm đây! Buổi tối ông đến hội trường đọc thơ, bài thơ “Biển”, rồi giảng giải cứ như buổi nói chuyện chuyên đề thơ, rõ dài… Sau này mấy ông bà giáo viên và cán bộ gặp tôi cứ khen và như “bái phục” về việc đám cưới mà được Xuân Diệu đến nói chuyện thơ thì “độc đáo” quá, mà họ còn bảo: ở đám cưới ông, tớ mới biết và được bắt tay Xuân Diệu, về làng khoe, mấy ông giáo làng cũ thấy “oai” đáo để!!
Phải nói thật là, cái chất thi sĩ trong Xuân Diệu là cả ở trong thơ và trong đời. Thơ thì lãng mạn, đời cũng xênh xang. Ông rất chi tiết trong công việc, nhưng cũng lơ đãng trong mọi thứ vật chất, không quan tâm giành giật cái gì, ông cứ lấy cái yêu đời, cái tình hòa nhã, bình dị mà gần gũi thân thương để làm một thứ “từ trường” hút mọi điều tốt đẹp.
Trong các nhà thơ Mới, tôi thấy ông là người dễ gần nhất. Ông là nhà thơ của công chúng, không thấy ai dám chê ông chút thiếu sót gì, và ngay gần đây trong chuyến công cán sang mấy nước châu Âu, châu Úc,… ở đâu tôi vẫn nghe Việt kiều nhắc tới ông và thuộc thơ ông.
Mới đây, chúng tôi vào nghĩa trang Mai Dịch để viếng ông, thắp hương trồng hoa, dọn cỏ và cả rót rượu đặt trên mộ ông. Chúng tôi thầm khấn rồi nhìn tấm phù điêu khắc hình ông mà thấy như ông chưa đi xa, vẫn thân ái như đâu đây thôi. Thế mới biết “ma lực” của một thi sĩ mạnh mẽ đến chừng nào, nó theo ta sống mãi, đấy là hồn thơ, hồn người cho ta một tình yêu không gì cản được.
TRẦN TRƯƠNG