.
Phương hay Thuốc quý

Rễ tranh lợi tiểu tiêu phù

.

Cỏ tranh hay Tranh săng là loài cỏ rất quen thuộc. Đồng bào các dân tộc Việt Nam bao đời nay thường cắt lá tranh lợp nhà, lấy rễ và hoa làm thuốc: “Rễ tranh lợi tiểu, tiêu phù/ Thanh nhiệt, cầm máu, suyễn ho cũng trừ”.

Cỏ tranh -  Imperata cylindrica (L.) P. Beauv. var. major (Nees) Hubb., thuộc họ Lúa - Poaceae. Ảnh: P.C.T
Cỏ tranh -  Imperata cylindrica (L.) P. Beauv. var. major (Nees) Hubb., thuộc họ Lúa - Poaceae. Ảnh: P.C.T

Cỏ tranh sống lâu năm, thân rễ dai ăn sâu dưới đất. Thân có lông cứng. Lá hẹp, dài và ráp. Cụm hoa màu trắng gồm nhiều bông nhỏ có lông tơ mịn.

Cỏ tranh mọc hoang trên các sườn đồi núi trống trải và phát tán ra đến đồng bằng. Cây khó diệt vì rễ ngầm sống rất dai. Có thể thu hái thân rễ quanh năm rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô. Thân rễ dùng làm thuốc, thường gọi là Bạch mao căn. Hoa cũng được dùng, gọi là Bạch mao hoa.

Theo Đông y, thân rễ Cỏ tranh có vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng lợi tiểu, giải nhiệt, cầm máu, mát huyết. Nếu phối hợp với mía nấu thành nước lại có tác dụng thanh nhiệt lương huyết, trừ thấp, giải độc. Nếu sao vàng thì thông tiểu, làm ra mồ hôi và giải độc.

Thường dùng trị sốt nóng khát nước, sốt vàng da (hoàng đản), đái ít, đái buốt, đái dắt, đái ra máu, ho thổ huyết, chảy máu cam. Ở Thái Lan, rễ và thân rễ dùng trị sỏi niệu, đái ra máu, bạch đới. Ở Trung Quốc còn dùng trị cao huyết áp. Hoa dùng trị nôn ra máu; nếu sao cháy rồi sắc hay hãm uống làm thuốc cầm máu. Ngày dùng 12-40g thân rễ, 2-4g hoa, dạng thuốc sắc.

Bài thuốc:

1. Nục huyết (chảy máu cam): Rễ tranh tươi 50g, sắc uống. Hoặc dùng: Hoa cỏ tranh 15g, Mũi heo 1 cái; xắt mỏng mũi heo, hầm chung với hoa cỏ tranh trong 1 giờ, lấy nước uống sau bữa ăn, 1 - 2 ngày uống 1 lần, liên tục 3 - 5 lần.

2. Khạc ra máu do phổi nóng: Rễ tranh tươi 90g, Tiên hạc thảo 15g, sắc uống.

3. Viêm thận cấp tính: Rễ tranh tươi 40g, Nhất chi hoàng hoa 30g, Vỏ khô quả bầu 15g, Cỏ lưỡi rắn trắng 30g. Sắc uống, ngày 1 thang.

4. Tiểu khó, tiểu nóng: Rễ tranh tươi 90g, Rau mã đề 30g. Sắc uống.

5. Ợ nấc, nôn mửa do say rượu, miệng khát, thiếu tân dịch ngày hè: Rễ tranh tươi 80g, Rễ sậy tươi 60g. Rửa sạch, cắt đoạn, sắc lấy nửa lít nước, uống liền, ngày 1 thang, liên tục 3-5 ngày.

6. Miệng khát, uống nước nhiều sau sốt cao: Rễ tranh tươi 100g, Sắn dây 30g. Sắc uống thay nước trà.

7. Tiểu ra máu: Rễ tranh tươi 60g, Tiểu kế 30g, Rau mã đề 30g. Sắc uống.

8. Tiểu đục lợn cợn như sữa: Rễ tranh tươi 250g, Tề thái 30g, Cỏ roi ngựa 20g. Sắc uống ngày 1 thang, trong 3-5 ngày.

9. Trúng độc cà độc dược: Rễ tranh tươi 50g, Mía 500g, Dừa 1 quả. Giã nát rễ tranh và mía, vắt lấy nước, trộn nước dừa nấu uống.

10. Ban sởi mọc mà không hết sốt: Rễ tranh tươi 50g sắc uống thay trà.

11. Chảy máu vết thương: Hoa cỏ tranh khô lượng vừa đủ đắp miệng vết thương, băng lại.

12. Ho ra máu do lao phổi: Rễ tranh tươi 60g, Ngó sen sao cháy 15g, Quả dành dành sao cháy 15g, Tiên hạc thảo 15g, Lá trắc bá sao cháy 20g. Sắc uống.

13. Xuất huyết nội tạng do đánh ngã: Rễ tranh 60g, Rễ mã lan (hài nhi cúc) 30g, Đường kính 15g. Sắc 2 vị thuốc lấy nước hòa đường uống.

14. Hành kinh ra máu mũi, miệng; máu sắc đỏ sậm, miệng khô, bức rức: Hoa cỏ tranh và Ngó sen đủ dùng. Hoa cỏ tranh sấy khô tán bột, cho vào hũ kín để dành dùng. Mỗi lần dùng 15g uống với 1 chén nhỏ nước cốt Ngó sen. Hoặc dùng Rễ tranh tươi 100g giã vắt nước hòa nước cốt Ngó sen uống.

15. Suyễn nhiệt: Rễ tranh tươi, Vỏ rễ dâu đều 30g. Sắc nước chia 2 lần  uống.

16. Thủy thũng: Rễ tranh 40g, Ý dĩ nhân 30g, Rau mã đề 20g. Sắc uống.

17. Mồ hôi sắc vàng: Rễ tranh tươi 200g, rửa sạch cắt nhỏ hầm cho rục với thịt heo nạc 200g, phân vài lần uống nước ăn thịt cho hết.

18. Viêm kết mạc xuất tiết cấp tính: Rễ tranh 50g, Bản lam căn 50g. Sắc chia 2 lần sáng tối uống, ngày 1 thang.

19. Đau nhức do phong thấp sau khi sinh đẻ: Lá cỏ tranh già, Thạch xương bồ, Lá ngải cứu lâu năm. Ba thứ lượng vừa đủ nấu nước xông ngâm hoặc tắm rửa chỗ đau nhức.

PHAN CÔNG TUẤN

;
.
.
.
.
.