Giữ gìn hương rừng, sắc núi

.

Một điều khá “độc lạ” ở Đà Nẵng là tộc người thiểu số miền núi nhưng lại sinh tụ ở “sát sườn” ngoại thành của một đô thị lớn tại khu vực miền Trung. Đó là cộng đồng “người Cơ tu vùng thấp” cư trú ở 3 thôn: Phú Túc (xã Hòa Phú), Giàn Bí và Tà Lang (xã Hòa Bắc), huyện Hòa Vang. Điều đặc biệt hơn nữa là đồng bào Cơ tu nơi đây vẫn bảo lưu được những giá trị độc đáo trong vốn văn hóa truyền thống của dân tộc mình trước những thách thức giao lưu, biến đổi và hội nhập của xu thế toàn cầu hóa.

Nhà gươl thôn Giàn Bí, xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang. Ảnh: TẤN VỊNH
Nhà gươl thôn Giàn Bí, xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang. Ảnh: TẤN VỊNH

Hương rừng sắc núi vẫn ẩn hiện, lưu giữ qua nét kiến trúc cổ như nhà làng, cổng làng, điêu khắc gỗ, trang phục, diễn xướng, ẩm thực... tạo nên dấu ấn, sắc thái văn hóa của địa phương.

Di sản văn hóa độc đáo

Về văn hóa vật thể, có thể thấy rõ nhất là kiến trúc nhà làng truyền thống. Cả thôn Phú Túc, Giàn Bí, Tà Lang đều có nhà gươl được phục dựng theo mô hình thiết chế văn hóa thôn bản nhưng nó vẫn giữ phong cách truyền thống. Đồng bào sử dụng vật liệu có sẵn trong thiên nhiên như cỏ tranh, lá mây, lá cọ, tre nứa, gỗ; đặc biệt, không có những vật liệu mới như bê-tông, xi-măng, sắt thép, tấm lợp bằng tôn... nên giữ được hồn cốt của dân tộc mình.

Trang trí nội thất nhà gươl vẫn giữ được nét đẹp vốn có giống như người đồng tộc ở vùng cao, có thể thấy ở cây cột cái, xà ngang, lan can... Sân nhà làng ở các thôn đều thoáng mát, ở giữa sân có dựng cây cột lễ - vật thiêng không thể thiếu vắng trong lễ hội của làng. Cây nêu của đồng bào Cơ tu ở thôn Phú Túc làm đẹp cho không gian sinh hoạt chung của làng. Nó là dạng cây nêu có cách thức trang trí, đường nét thẩm mỹ khác biệt so với cây nêu của người Cơ tu ở vùng cao. Về thiết chế văn hóa cổ truyền, bên cạnh nhà làng, đồng bào nơi đây xây dựng một số nhà moong (nhà rẫy) làm nơi sinh hoạt, chế biến ẩm thực trong dịp lễ hội. Thôn Tà Lang và Giàn Bí được quy hoạch, tái định cư theo mô hình thôn mới. Trước khi vào thôn có cổng làng với đường nét kiến trúc cổ, trụ cổng vững chắc, mái khum hình mu rùa mang dáng dấp của ngôi nhà làng Cơ tu.

Thú vị hơn, đồng bào Cơ tu ở thôn Tà Lang, Giàn Bí vẫn còn lưu giữ bộ sưu tập mặt nạ do chính nghệ nhân trong làng tạo tác và qua trao đổi với người đồng tộc ở Đông Giang. Những mặt nạ gỗ nơi đây có kích thước lớn, rộng khoảng 25cm, dài khoảng 35cm. Từ những bộ phận chính trên mặt nạ như mắt, mũi, miệng đến những chi tiết khác như trán, má, cằm... được cách điệu với đường nét tạo hình hết sức hoang sơ. Đây là những chiếc mặt nạ tương đối hoàn hảo, có sắc thái riêng trong tạo dáng và chạm trổ, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghệ thuật gọt đẽo và sử dụng sắc màu. Một số nghệ nhân còn biết chạm khắc mặt nạ gỗ và truyền dạy cho thế hệ trẻ trong làng. Có thể đây là những nghệ dân cuối cùng của đồng bào Cơ tu ở vùng thấp còn biết đến nghệ thuật điêu khắc mang đậm dấu ấn nguyên thủy.

Có nhiều biến đổi trong nếp sống, cư trú, sinh hoạt, ăn uống do giao lưu, ảnh hưởng văn hóa của người Kinh ở đồng bằng nhưng đồng bào Cơ tu nơi đây vẫn biết khai thác, chế biến những món ăn truyền thống như người đồng tộc ở vùng cao. Từ nguồn lương thực, thực phẩm, sản vật nuôi trồng và khai thác trong thiên nhiên, đồng bào chế biến thành nhiều món ăn đặc sản truyền thống phục vụ cho các dịp lễ, Tết như món nướng, món lam, các loại bánh, các loại thức uống.

Những sản vật khai thác từ thiên nhiên núi rừng, sông suối cũng thường thấy xuất hiện trong các món ẩm thực dành cho lễ hội, sinh hoạt cộng đồng. Đó là món cá niêng, ốc đá khai thác từ sông Cu Đê, các món ăn từ côn trùng như trứng kiến, kiến vàng, nhộng ong, cào cào, dế... các loại rau, củ, quả được thu hái núi rừng, nương rẫy. Nhìn vào “mâm cỗ” dâng cúng thần linh, đãi khách quý thì cũng đầy đủ hương vị, sắc màu không thua đặc sản ẩm thực của người đồng tộc ở vùng cao.

Lan tỏa hệ giá trị bản sắc, nhân văn

Cùng với tài nguyên thiên nhiên bao bọc quanh Bà Nà, Núi Chúa, sự hiện diện của đồng bào Cơ tu tạo nên “tài nguyên nhân văn” quý báu ở vùng ngoại thành Đà Nẵng. Trong đó, vốn văn hóa truyền thống của cộng đồng dân tộc Cơ tu đang cư trú tại huyện Hòa Vang và địa bàn giáp ranh nằm dọc theo tuyến đường lên huyện Đông Giang (Quảng Nam) được phục hồi và khai thác hiệu quả ở các điểm du lịch như Suối Hoa, Công viên suối khoáng nóng Núi Thần Tài, làng du lịch cộng đồng Phú Túc, Tà Lang, Giàn Bí... Vị trí không xa thành phố nhưng lại hội tụ nhiều lợi thế với thiên nhiên hoang sơ và vốn văn hóa truyền thống tộc người là tiềm năng lớn để thành phố phát triển du lịch theo hướng bền vững.

Trong định hướng quy hoạch, phát triển của địa phương, đặc biệt là huyện Hòa Vang, cần quan tâm đầu tư nguồn lực để tái dựng và khai thác không gian văn hóa của dân tộc Cơ tu, làm giàu có, phong phú thêm tài nguyên nhân văn, tạo nên giá trị độc đáo trong các sản phẩm du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ tại các điểm du lịch nổi tiếng phía tây thành phố.

Việc hình thành và khai thác không gian văn hóa tộc người Cơ tu trên cơ sở kế thừa vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc tại chỗ là việc làm thiết thực, góp phần tăng cường nguồn lực, giải pháp hiệu quả để bảo tồn, phát huy giá trị di sản, phát triển sự nghiệp văn hóa, du lịch của thành phố. Trước mắt cần khẩn trương nghiên cứu, đánh giá hệ thống các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu, có giá trị như làng nghề truyền thống, lễ hội, nghệ thuật diễn xướng, nghệ thuật điêu khắc, trang trí, trang phục truyền thống, nghề dệt thổ cẩm, văn hóa ẩm thực... của dân tộc Cơ tu ở huyện Hòa Vang, kể cả nơi giáp ranh như huyện Đông Giang (Quảng Nam) và huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế).

Khuyến khích và hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp du lịch đang đứng chân nơi đây về quy hoạch, xây dựng thiết chế văn hóa, tái hiện các mô hình “bảo tàng sống”, không gian kiến trúc cổ truyền như nhà gươl, kho lúa, chòi rẫy, nhà ở, khu vực canh tác... phù hợp với địa hình, cảnh quang thiên nhiên. Từ đó kết nối với các làng du lịch cộng đồng người Cơ tu ở huyện Hòa Vang (Đà Nẵng), Đông Giang (Quảng Nam) và các khu vực kế cận. Thành phố cần quan tâm hơn nữa nhằm tạo ra một tuyến điểm tham quan, du lịch phía tây, khám phá thiên nhiên, di sản văn hóa tộc người, kết hợp hài hòa giữa môi trường sinh thái và môi trường nhân văn.

Phía tây thành phố nói riêng, miền núi xứ Quảng nói chung đều thuộc Tiểu vùng văn hóa Trường Sơn, nơi có thiên nhiên, rừng núi hoang sơ và các dân tộc bản địa sinh sống. Thiên nhiên và di sản văn hóa tộc người thiểu số là nguồn tài nguyên quý báu của thành phố. Trước xu thế toàn cầu hóa, văn hóa cổ truyền của người Cơ tu ở huyện Hòa Vang đang đứng trước nguy cao bị mai một nhanh chóng. Trong định hướng chiến lược phát triển về phía tây, Đà Nẵng cần tăng cường nguồn lực, khuyến khích, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp tạo dựng, phục hồi và khai thác không gian văn hóa tộc người, bảo tồn và phát huy những di sản nhân văn nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội.

TẤN VỊNH

;
;
.
.
.
.
.