.

Thơ: Đỗ Như Thuần

.

Nồi cơm mẹ Thứ

Chiếc nồi ấy khác chi ngàn vạn chiếc nồi
Con thường thấy
Khác chăng nó được đặt trong Viện Bảo tàng
Mỗi lần xem lòng con sống dậy
Trước vô cùng lòng mẹ Quảng Nam

Chiếc nồi đồng cũng thắt đáy lưng ong
Dáng mẹ thời con gái
Giống chiếc giỏ tre Mẹ giắt ngang lưng
Thân cò lặn lội
Nuôi chín người con trai
Sau chiến tranh không còn một ai trở về với Mẹ

Nồi cơm Thạch Sanh vẫn là câu chuyện cổ
Đỡ đói lòng bao thân kiếp nhỏ nhoi
Nồi cơm Mẹ Điện Bàn cao hơn truyền thuyết
Chuyện một thời của Tổ quốc tôi.

Vô danh

Nhớ thương cúi đầu yên lặng
Bia đá tạc lên trời xanh
Hàng trăm linh hồn có lửa
Gặp nhau nơi cõi vĩnh hằng

Sinh ra phải thời giặc giã
Bút nghiên tạm gác lên đường
Anh đi về miền súng nổ
Một lòng giải phóng quê hương.

Ngã xuống bụng còn đói khát
Tóc xanh nhuộm đất đồng làng
Vẫn mơ mẹ vui mùa gặt
Em thơ cắp sách đến trường.

Hồn ẩn rừng cây ngọn gió
Cháy lên ký ức chập chờn
Bao đêm mẹ ra đầu ngõ
Nước mắt nuốt lặn vào trong

Bia mộ có tên, có tuổi
Khói hương về lại quê nhà
Thương nhất linh hồn đồng đội
Vô danh! Phiêu bạt đường xa.

Về Quảng Nam

Về Quảng Nam nhớ câu “Ba Lý”
Bà hát ru hời thuở nằm nôi
Thu Bồn chở phù sa nuôi biển
Tháp cổ ngàn đời in bóng nghiêng soi

Thăm Núi Thành, Cấm Dơi, Thượng Đức
Đồng đội tôi nằm lại giữa chiến hào
Thương mẹ tiễn chồng, con ra trận
Ngày khải hoàn cùng lúc nhận tin đau

Loòng boong, khoai chà, măng le, môn thục
Cứu bạn tôi khỏi cơn đói năm nào
Đêm Trà My nghe pháo bầy, pháo chụp
Trường Giang buồn nhớ tổ chốt luồn sâu

Bao năm rồi mẹ Nước Oa vẫn nhắc
Người đi xa hãy nhớ tìm về
Ánh trăng khuya giữa Bồ Bồ thổn thức
Gợi cánh thư nhà tận phía trời quê

Đất quê hương tạc vào lịch sử
Mỹ Sơn-Hội An lay động bao người
Điện Ngọc-Chu Lai bừng lên sắc đỏ
Xóa đói nghèo vươn tới tương lai.

ĐỖ NHƯ THUẦN

;
.
.
.
.
.