Mỗi chuyến đi, mỗi tên tàu, mỗi tên người, mỗi tên bến bãi là một chiến công lặng thầm của những cán bộ, chiến sĩ đoàn tàu không số (TKS). Hàng trăm chuyến đi là hàng trăm sự tích anh hùng mãi mãi lưu truyền trong lịch sử.
Vũng Rô-một trong những nơi tiếp nhận những chuyến tàu không số. Ảnh: Nguyễn Thành |
Sau khi ký Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, nước ta tạm thời chia làm hai miền. Ở miền Nam đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn thẳng tay đàn áp những người yêu nước, phong trào kháng chiến lúc này như trong đêm tối mịt mùng, nhưng ngày đêm vẫn hướng về Hà Nội – trái tim Tổ quốc, mong chờ sự chi viện.
Ở miền Nam, năm 1960 phong trào đồng khởi dấy lên mạnh mẽ. Vùng giải phóng được mở ra, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Lực lượng bán vũ trang, vũ trang phát triển nhanh chóng, yêu cầu phải có vũ khí trang bị để đánh giặc đặt ra cấp bách.
Từ xe đạp thồ đến con thuyền gỗ
Nhiệm vụ tiếp tế bằng đường bộ trên đường Trường Sơn mới chỉ đưa được một ít vũ khí gọn nhẹ vào đến Liên khu 5, còn các vùng Nam Trung bộ và Tây Nam bộ là hoàn toàn chưa tiếp tế được. Vì vậy đầu năm 1961, Bác Hồ, Bộ Chính trị chủ trương chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Tiểu đoàn 603 vận tải đường biển, lúc đầu với tên gọi “Tập đoàn đánh cá sông Gianh” (tiền thân của Đoàn 759, đoàn TKS sau này) đã được thành lập.
Lúc đầu Đoàn 603 đặt cơ sở tại thôn Thanh Khê, xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Cán bộ, chiến sĩ hầu hết là số anh em miền Nam tập kết ra Bắc được điều động về. Nhiệm vụ trước mắt là đóng thuyền gỗ, mua ngư, lưới cụ, trang bị cần thiết, ngày ngày ra khơi đánh cá, rèn luyện làm quen sóng gió; học khí tượng thủy văn, học bao gói che đậy hàng hóa...
Đúng vào đêm 30 Tết, ngày 16-1-1961, gió mùa đông bắc khá mạnh, được lệnh Quân ủy Trung ương, chiếc thuyền gỗ đầu tiên rời cảng Sông Gianh bí mật đưa 5 tấn vũ khí vào Liên khu 5. Biển động rất mạnh, sau mấy ngày vật lộn với sóng gió, thuyền đến được vùng biển Đà Nẵng. Gặp cơn lốc mạnh làm chìm tàu, một số đồng chí hy sinh, còn lại bơi tản mát vào bờ, một số bị địch bắt nhưng chúng không khai thác được gì nên bí mật của con đường chưa bị lộ.
Tình thế thực sự khó khăn, yêu cầu chi viện miền Nam ngày càng cấp bách. Thực hiện chỉ thị của Trung ương, giữa năm 1961 các tỉnh Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh, Rạch Giá, Cà Mau lần lượt đưa được 5 thuyền gỗ vượt biển ra Bắc để nhận vũ khí. Nhiều thuyền hành trình vô cùng vất vả, phải qua tận Hồng Kông, Hải Nam rồi mới về miền Bắc. Chỉ huy các thuyền có các đồng chí Bông Văn Dĩa, Lê Văn Thanh, Đỗ Viết Thắng và 17 đồng chí khác. Đánh giá tầm quan trọng của nhiệm vụ, đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng nói: “Trước kia giặc Pháp thua ta cũng vì những chiếc xe đạp thồ, nay Mỹ-ngụy cũng thua ta từ những chiếc thuyền gỗ này”.
Sau 5 thuyền vượt biển từ Nam ra Bắc thành công, để kịp thời chi viện cho miền Nam, ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Đoàn 759 vận tải biển từ cơ sở Tiểu đoàn 603 và 20 cán bộ miền Nam vừa vượt biển ra Bắc. Nhiệm vụ tập trung chủ yếu mua sắm tàu thuyền, phương tiện, trang bị, huấn luyện chính trị, chuyên môn, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam. Phương châm: Hết sức khẩn trương; Tuyệt đối giữ bí mật; Tinh thần độc lập tác chiến rất cao; Thực hiện lâu dài cho đến ngày thống nhất đất nước.
Thời gian đầu đoàn ở Hà Nội, được sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng mà đặc trách là đồng chí Trung tướng Trần Văn Trà. Các đội đều ở riêng biệt, độc lập từng nhà, mọi sinh hoạt “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Khi nhận nhiệm vụ chỉ có đội trưởng – chính trị viên đi gặp cấp trên, còn anh em chỉ vận hành theo mệnh lệnh của đội trưởng.
Sau một thời gian chuẩn bị, đêm 8-4-1962, chiếc thuyền gỗ do Bông Văn Dĩa làm thuyền trưởng vượt biển vào Nam làm nhiệm vụ trinh sát mở đường. Sau 10 ngày vất vả, căng thẳng, đến 18-4 thuyền đã đến bến ghềnh Hào Cà Mau an toàn. Sau chuyến trinh sát mở đường thắng lợi, Đoàn 759 liên tiếp tổ chức các thuyền của đội 1, đội 2, đội 3, đội 4… lần lượt từ các bến trên miền Bắc bí mật vượt biển, mang theo hàng chục tấn vũ khí vào chi viện cho miền Tây Nam bộ.
Trong điều kiện đi độc lập dài ngày trên biển, đối phó với sóng to gió bão bất ngờ và tàu địch dò xét, cán bộ, chiến sĩ vẫn bình tĩnh xử lý khôn khéo các tình huống, quyết tâm đưa vũ khí vào bờ. Có chuyến anh em phải tự tìm bến bãi, có lần phải đi hàng tháng trời nhưng vừa về là có lệnh đi tiếp.
Đầu năm 1964, tình hình cách mạng miền Nam phát triển. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ vận tải chi viện đường biển cho Bộ Tư lệnh Hải quân đảm nhiệm và quyết định đổi tên Đoàn 759 thành Đoàn 125 vận tải biển. Lực lượng tàu thuyền lúc này được tăng cường, nhiều anh em quê miền Bắc được lựa chọn về Đoàn để làm nhiệm vụ đặc biệt. Để chỉ đạo trực tiếp, kịp thời, Đoàn chuyển về cảng Bến Động, Thủy Nguyên, Hải Phòng được chọn làm đặc trách vận tải chi viện miền Nam.
Phải tới đích, dù chỉ còn một nửa…
Thời gian này, hàng chục TKS được đóng mới to hơn, sức chở từ 50 tấn đến 100 tấn, tốc độ nhanh, sức chịu đựng sóng gió tốt, có thể đi biển xa đến hải phận quốc tế. Cuối năm 1964, đầu năm 1965, tình hình trở nên bất lợi. Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ, mở rộng đánh phá ra miền Bắc. Mỹ tập trung số lượng hải quân lớn nhất của Hạm đội 7 sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 đến Việt Nam gồm 65 tàu chiến và tàu đổ bộ, 50% số tàu tuần dương khu trục, 42% số tàu sân bay. Con đường vận tải bí mật của những con TKS của ta khó khăn hơn bao giờ hết. Nhất là khi chiếc tàu 134 do Thuyền trưởng Lê Văn Thêm, Chính trị viên Phan Văn Bảng chỉ huy bất ngờ luồn lách đưa 100 tấn vũ khí vào vịnh Vũng Rô, tỉnh Phú Yên. Sau khi bốc xếp, ngụy trang hàng hóa xong, tàu chưa kịp quay ra thì bị địch phát hiện, vây ráp đánh phá. Anh em vừa chiến đấu vừa đánh lạc hướng, cất giấu hàng hóa rồi hủy tàu, rút lên bờ về căn cứ, nhưng bí mật của con đường vận tải trên biển của TKS đã bị lộ.
Lực lượng tàu của địch cùng máy bay trinh sát đã ráo riết tạo thành một thế trận phong tỏa dày đặc từ vùng biển giới tuyến 17 đến Cà Mau, từ vùng tiếp giáp hải phận quốc tế đến các cửa vịnh sông ngòi, kênh rạch miền Nam. Chúng phân chia thành các tuyến giữa Hải quân Mỹ, ngụy, quyết ngăn chặn con đường tiếp tế của ta từ hướng biển.
Càng khó khăn càng phải tìm cách khắc phục. Quân ủy Trung ương chỉ đạo “Chỉ cần một nửa số chuyến đi vào được bến là thắng lợi…” (một con tàu với 10 người, 20 ngày là đưa được mấy chục tấn vũ khí vào chiến trường bằng 1.500 người gùi cõng trên đường Trường Sơn 5 tháng). Từ năm 1965 đến năm 1972, những con TKS vẫn tiếp tục vượt biển làm nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho miền Nam trong điều kiện hết sức khó khăn ác liệt, hiểm nguy.
Thời gian này qua giới tuyến 17 là gặp địch. Nhiều chuyến đi phải quay lại. Nhiều chuyến phải qua nước bạn, ra hải phận quốc tế, hàng tháng trời chỉ ăn bằng lương khô với nước nhưng quyết chờ thời cơ thuận lợi, đưa vũ khí vào bờ. Nhiều chuyến đã vào gần bến thì bị địch phát hiện, anh em quyết tâm thà hy sinh, quyết không để người và vũ khí rơi vào tay giặc. Có những cuộc chiến không cân sức. Anh em đã anh dũng chiến đấu đến người cuối cùng rồi hủy tàu hoặc lao thẳng tàu ta vào tàu địch, anh dũng điểm hỏa bộc phá hàng trăm ký để tiêu diệt tàu địch và anh dũng hy sinh, vĩnh viễn nằm lại dưới lòng biển mẹ thân yêu. Tất cả đã chiến đấu với tinh thần “Tất cả vì miền Nam”. Mặc dù Mỹ, ngụy dùng trăm phương nghìn kế để ngăn chặn. Mặc dù hàng chục con tàu và hàng trăm đồng chí đã hy sinh. Mặc dù chuyến này ra đi chưa về hoặc không về nữa, chuyến khác lại tiếp tục ra đi. Mọi người thanh thản làm truy điệu sống, sẵn sàng lên tàu chi viện cho miền Nam.
Để tránh nhiều tổn thất, đau thương, mất mát, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đồng ý, Bộ Tư lệnh Hải quân xin ý kiến Quân ủy Trung ương cho phép thay đổi phương thức vận chuyển, từ bí mật sang bán công khai và hợp pháp. Những cán bộ, chiến sĩ TKS quê miền Nam, có kinh nghiệm được chuyển sang sử dụng những chiếc thuyền gỗ, đóng ở miền Bắc nhưng theo kiểu thuyền đánh cá của ngư dân Nam bộ; gắn biển đăng ký các tỉnh miền Trung. Bí mật cất giấu vũ khí, giả làm ngư thuyền hoặc thương thuyền, vượt ra hải phận quốc tế, rồi trà trộn vào ngư trường đánh bắt của ngư dân miền trong, chờ lúc thuận lợi cập bến đưa vũ khí vào vùng giải phóng. Nhờ vậy, từ năm 1965 - 1972 ta tổ chức được hàng trăm lượt tàu, vận chuyển được hàng chục ngàn tấn vũ khí, đạn dược.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân 1975, những con TKS tiếp tục nhận mệnh lệnh vận chuyển quân vào chiến trường bằng đường biển. Nhiều tàu được lệnh tiếp tục vượt biển đưa các đội đặc công của Hải quân và Quân khu 5 ra Cù Lao Thu và quần đảo Trường Sa để phối hợp với toàn chiến dịch lần lượt đánh chiếm, làm chủ hoàn toàn đảo Cù Lao Thu và các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do hải quân ngụy chiếm giữ, góp phần vào thắng lợi cuộc Tổng tấn công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ, sự chỉ đạo, chỉ huy mưu trí, sáng tạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Hải quân, suốt chiều dài cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, đoàn TKS đã lập nên những thành tích to lớn: Huy động hơn 1.800 lượt chiếc tàu thuyền, đi hơn 3.000.000 hải lý, khắc phục hàng ngàn quả thủy lôi, vận chuyển hơn 150.800 tấn vũ khí và hàng chục ngàn lượt người.
Bao nhiêu chuyến đi là bấy nhiêu câu chuyện thần kỳ về tinh thần mưu trí, dũng cảm, về tinh thần vượt khó, sức chịu đựng gian khổ hiểm nguy, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Mỗi chuyến đi, mỗi tên tàu, mỗi bến bãi, mỗi tên người là một chiến công, hàng trăm chuyến đi là hàng trăm sự tích anh hùng mãi mãi lưu truyền trong lịch sử. Tất cả, những kỳ tích chiến công ấy xâu chuỗi lại đã làm nên con “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, con đường lịch sử, con đường huyền thoại.
Phan Văn Cúc
(Đại tá, nguyên Phó Chỉ huy trưởng về chính trị, Bộ Chỉ huy Vùng 3 Hải quân)