Nguyễn Biểu (?- 1413) quê làng Bình Hồ, huyện La Sơn, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh). Ông đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) khoảng năm 1357 cuối thời Trần, làm quan đến chức Điện tiền Thái sử (Ngự sử).
Đường Nguyễn Biểu. |
Năm 1413, quân Minh đánh vào Nghệ An, vua Trùng Quang Đế chạy vào Hóa Châu, sai Nguyễn Biểu đi sứ, trước xin cầu phong thực hiện kế hoãn binh, sau giảng hòa. Tướng nhà Minh là Trương Phụ tiếp sứ thần nước ta rất ngạo mạn, trịch thượng. Một viên quan đứng hầu Phụ, hỏi sao yết kiến Trương Tổng binh mà không quỳ lạy? Ông quắc mắt: “Trương Tổng binh là bầy tôi của vua phương Bắc, ta là bầy tôi của vua phương Nam. Cùng là bầy tôi cả, cớ sao ta lại phải quỳ lạy?”.
Không bắt bẻ vào đâu được, Trương Phụ đành sai bày ra một mâm cỗ chỉ có một cái đầu người luộc chín, mời Nguyễn Biểu ăn để thử đảm lược ông thế nào. Ông ung dung ngồi vào bàn, nói rằng: “Mấy thuở người phương Nam được ăn thịt người phương Bắc!”, rồi lấy đũa khoét đôi mắt, chấm dấm mà nuốt. Ông vừa ăn, vừa rung đùi ngâm bài thơ ứng tác Cỗ đầu người:
Ngọc thiệt, trân tu đã đủ mùi/ Gia hào thêm có cỗ đầu người/ Nem công, chả phượng còn thua béo/ Thịt gấu, gan lân cũng kém tươi/ Ca lối Lộc minh so cũng một/ Vật bày Thỏ thủ bội hơn mười/ Kìa kìa ngon ngọt tày vai lợn/ Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời.
Trong thơ, ông có ý ví mình như tráng sĩ Phàn Khoái, công thần khai quốc nhà Hán bên Tàu, từng hiên ngang bảo vệ Lưu Bang khỏi bị Hạng Vũ sát hại trong đại yến ở Hồng Môn. Trương Phụ nghe qua, phải kính phục, tha cho ông về.
Lúc đó, một hàng tướng tên là Phan Liêu ton hót với Phụ rằng Nguyễn Biểu nói “Năng sảm nhân đầu, năng sảm Phụ” (nuốt được cỗ đầu người thì cũng có thể nuốt tươi được Phụ). Phụ cả giận, sai quân đuổi theo bắt lại. Đến nước này thì ông không kìm được cơn giận, mắng thẳng vào mặt Phụ: “Trong bụng thì toan tính việc đánh chiếm nước người ta mà bề ngoài thì lại lớn tiếng là quân nhân nghĩa, trước nói lập con cháu họ Trần, bây giờ lại đặt quận huyện, không những cướp bóc của cải, lại còn giết hại nhân dân, mày thật là thằng giặc bạo ngược”.
Phụ muốn giết quách ông cho xong, buộc ông phải đối lại câu “Năng sảm nhân đầu, năng sảm Phụ”, được thì cho về, không được thì chém. Ông khảng khái đối lại rằng: “Hựu tồn ngô thiệt, hựu tồn Trần” (còn ba tấc lưỡi của ta thì nhà Trần vẫn còn!). Phụ đùng đùng nổi giận, nuốt lời, không tha mà sai cắt lưỡi ông, để “thử xem cắt lưỡi nó đi, nhà Trần có còn được nữa hay không?”.
Chưa hả giận, Phụ sai thuộc hạ đánh chết ông. Cũng có tài liệu cho rằng Phụ sai trói ông vào chân cầu, để cho nước thủy triều dâng lên dìm chết. Tương truyền, trước khi chết, ông dùng móng tay vạch vào thân cầu tám chữ: “Thất nguyệt, thập nhất nhật, Nguyễn Biểu tử” (Tháng 7, ngày 11, Nguyễn Biểu chết).
Việc ông tuẫn tiết không những chép ở sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 12, tờ 37 và 38), mà còn được chép ở Nghĩa sĩ truyện của Hoàng Trừng, người sinh vào thế kỷ XVI và là cháu chắt bên ngoại của Nguyễn Biểu. Trong Nghĩa sĩ truyện có chép bài văn tế vua Trùng Quang khóc Nguyễn Biểu, có đoạn: “Sầu kia không lấp cạn dòng/ Thảm nọ dễ xây nên núi/ Lấy chi báo chưng hậu đức, rượu kim tương một lọ, vơi vơi mượn chuốc ba tuần/ Lấy chi ủy thửa phương hồn, văn dụ tế mấy câu, thăm thẳm ngõ thông chín suối”.
Dân chúng vùng Hồng Lĩnh lập đền thờ, suy tôn Nguyễn Biểu là Nghĩa vương. Các triều đại sau cũng đều truy phong ông làm Phúc thần. Hiện nay tại xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ có đền thờ Nguyễn Biểu được xây dựng vào thời nhà Lê để tưởng nhớ công lao của ông.
Ở Đà Nẵng, tên ông đã được đặt cho con đường nối từ đường Đoàn Nhữ Hài đến đường Nguyễn Nghiêm (ảnh), thuộc phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, theo Nghị quyết số 28/2003/NQ/HĐND ngày 11-1-2003 của HĐND thành phố Đà Nẵng.
LÊ GIA LỘC