Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) Nguyễn Lai (còn gọi là Sáu Lai) từ chân nhắc tuồng đã trở thành bậc thầy nghệ thuật tuồng, hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã dành cả cuộc đời để lao động sáng tạo nghệ thuật kiên trì và bền bỉ.
Nguyễn Lai được sinh ra trong gia đình nhà nho có truyền thống về nghệ thuật tuồng. Tuy ông nội, bác ruột và cha làm quan dưới triều Nguyễn nhưng sau đó đều từ quan để một lòng thờ phụng nghệ thuật tuồng. Cha Nguyễn Lai - cụ Nguyễn Hiển Phồn - làm Bang tá Hội An vài năm rồi lập gánh hát Bầu Bang. Bác ruột của ông là Nguyễn Hiển Dĩnh làm đến chức quan Tuần phủ rồi về hưu lập một trường hát ngay trong vườn, có thể xem là trường hát cố định đầu tiên ở tỉnh Quảng Nam để dạy học trò và soạn tuồng. Nhiều nghệ sĩ xuất sắc như Nguyễn Nho Túy, Văn Phước Khôi, Nguyễn Phẩm… cũng trưởng thành từ chiếc nôi này.
NSND Nguyễn Lai. (Ảnh tư liệu) |
Vượt qua nhiều trở ngại
Tuy bác và cha Nguyễn Lai đều là các bậc thầy tuồng, các bầu gánh nhưng không muốn cho con làm nghề hát xướng, mà muốn con học tập đỗ đạt. Mặt khác, Nguyễn Lai không có hình thể tạo ra sức hấp dẫn sân khấu. Vóc dáng ông thấp, lại to, mặt không sáng. Đặc biệt, đôi mắt ông quá nhỏ, mà trong tuồng đôi mắt là yếu tố biểu diễn hết sức quan trọng. Lúc sinh thời, ông tâm sự: “Đôi mắt để trông, để ngó, để liếc, để tỏ nổi giận phừng phừng, để nói lên nỗi đau khôn xiết, để dò ý tứ kẻ gian, để biểu lộ niềm thương đối với người thân thiết. Tôi không may mắn có gương mặt biểu lộ tình cảm, đôi mắt tôi lại là một trở ngại lớn”. Ông cũng không có giọng hát, khi hát thì hơi thường bị chênh, tiếng hát cứ ngang ngang, chệch chạc…
Song, vì quá yêu tuồng nên từ lúc 9, 10 tuổi, cậu bé Lai đã quên buổi học chữ nho, quên cả bữa ăn, cùng bạn bè say mê xem các anh, các bác tập luyện trong vườn nhà bác mình. Nguyễn Lai nằn nì cha và bác cho làm chân nhắc tuồng (Biện tuồng). Nhờ thông thạo chữ nghĩa, lại thường được nghe giảng, ngắm nhìn dáng điệu của các diễn viên trong các vai tuồng nên Nguyễn Lai càng thấm những lời hay ý đẹp của những câu hát.
Nguyễn Lai thường lân la đến chỗ anh em tập dượt và í a hát theo người hát, uốn tay, khoa chân bắt chước người múa, kiên trì khổ luyện ngày này qua ngày khác. Gặp ai có bài hát hay, Nguyễn Lai xin học, tự tập rồi nhờ sửa chỗ sai phạm. Có khi trong giấc mơ, Nguyễn Lai cũng cất tiếng hát, dần dần hát tròn vành rõ chữ.
Rồi Nguyễn Lai tập các loại vai. Ông còn tìm đến ông Quyền Ngữ, người có đôi mắt làm xáo động hàng ngàn người xem trong vai Tôn Quyền, được tặng danh hiệu “Bích nhãn nhi” để học luyện đôi mắt.
Qua nhiều năm vừa làm chân nhắc tuồng, vừa khổ công luyện tập, năm 20 tuổi, Nguyễn Lai được lên sân khấu. Bắt đầu là những vai đầu tuồng, người đưa thư báo tin, kẻ sai nha đi khám nhà, đến các loại kép rừng, kép câu, rồi thay vai cho những người đau yếu, dần dần ông tiến lên. Những người thân như cha và bác ruột Nguyễn Hiển Dĩnh cũng đồng ý cho Nguyễn Lai đi theo nghề tuồng. Chính nhà hoạt động tuồng nổi tiếng này đã đánh trống chầu dồn dập khích lệ đứa cháu.
Khổ luyện không ngừng
Nguyễn Lai đã vượt qua biết bao thăng trầm trên con đường nghệ thuật, chẳng hạn có lúc diễn không đạt, bị khán giả chê, có lúc cải lương phát triển làm tuồng bị lép vế; bản thân ông có lúc nản lòng, buồn bực. Nhưng chỉ xa sân khấu một thời gian ngắn, ông thấy trống rỗng, buồn chán, rồi quay lại với nghề.
Bằng sự khổ luyện không ngừng và luôn sáng tạo, Nguyễn Lai khắc phục những nhược điểm của bản thân, làm sống động trên sân khấu hàng trăm nhân vật. Đặc biệt, ông rất thành công với vai nịnh - loại vai rất quen thuộc nhưng ít người thích đóng. Vì vậy, ông được giới nghệ thuật và người xem xếp vào một trong ngũ mỹ của nghệ thuật tuồng Quảng Nam gồm: Lão võ ông Đệ (Chánh Đệ), lão văn ông Phẩm (Chánh Phẩm), kép ông Tảo (Đội Tảo), nịnh ông Lai (Nguyễn Lai), tướng ông Thùy…
Nguyễn Lai dày công nghiên cứu để các vai nịnh có nội tâm phong phú, đa dạng, không chỉ đáng ghét về ngoại hình, xuất hiện với những lời nói, điệu bộ khuôn rập, mặt mốc râu ria, bụng phệ, cái quạt trên tay phe phẩy, dáng đi khệnh khạng, cử chỉ lố lăng, kệch cỡm, mà ông còn phát huy những truyền thống trong nghề đối với các vai nịnh để xử lý tính cách các vai nịnh cụ thể trong hoàn cảnh cụ thể.
Không những thế, Nguyễn Lai còn dành nhiều tâm huyết sáng tạo tiếng cười tuồng. Tiếng cười có đủ kiểu, đủ vẻ: cười của người già, người trẻ, người trung, người nịnh; cười khi vui sướng, đau khổ; cười của kẻ yếu, kẻ mạnh, kẻ dại, người điên; cười mà như khóc, khóc mà như cười… Ông đúc kết được 29 kiểu cười khác nhau, một phần do học ở các thầy, phần lớn do ông tìm tòi, khám phá. Ông thường nói: “Không chỉ có 29 kiểu cười thôi đâu. Thực ra là vô số. Bao nhiêu nhân vật, bao nhiêu cảnh ngộ, bao nhiêu tâm trạng là bấy nhiêu kiểu cười…”.
“Cố giữ lấy nghề tuồng của cha ông”
Đáng chú ý, Nguyễn Lai đã mày mò học tập từ sách báo, cuộc sống, bạn bè và thầy để dựng tuồng, soạn tuồng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nguyễn Lai cùng Tống Phước Phổ dựng các vở Cờ giải phóng, Gương phấn đấu để lấy tiền gây quỹ đoàn thể. Năm 1952, khi Liên Khu ủy 5 quyết định thành lập đoàn hát bộ, Nguyễn Lai được mời tham gia và đem tài năng nghệ thuật phục vụ cách mạng. Ông say mê luyện tập cho các diễn viên mới, đồng thời cùng các nghệ sĩ bậc thầy khác như Nguyễn Nho Túy, Tống Phước Phổ, Văn Phước Khôi, Ngô Thị Liễu sáng tác và dựng các vở Nhân dân đi nạp lúa, Đường về vụ Quang, Trưng Vương khởi nghĩa; cùng các vở tuồng cổ được cải biên như Ngọn lửa Hồng Sơn, Tạ Ngọc Lân lăn lửa…
Đặc biệt, năm 1953, Nguyễn Lai sáng tác vở Chị Ngộ gây tiếng vang ngay khi công diễn lần đầu, làm dấy lên lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù địch mãnh liệt ở người xem. Vở Chị Ngộ đoạt giải thưởng Phạm Văn Đồng năm 1954 và giải đặc biệt tại Đại hội văn công toàn quốc năm 1956. Vì thế, trong Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ nhất năm 1957, Nguyễn Lai được tham gia như một hội viên sáng lập.
Nguyễn Lai cũng có công đưa vai Trùm Sò (vở Nghêu sò ốc hến) lên màn ảnh một cách sáng tạo và tươi mới. Ông còn vẽ lại hơn 120 mẫu hóa trang bộ mặt các vai tuồng và tham gia cải biên, chỉnh lý, hiệu đính nhiều vở tuồng khác.
Nguyễn Lai còn đào tạo nhiều thế hệ trẻ về nghệ thuật tuồng. Năm 1959, Trường Ca kịch dân tộc Việt Nam thành lập, ông được cử làm Chủ nhiệm khoa tuồng. Ông đã viết bộ giáo trình giảng dạy môn nghệ thuật tuồng và nhiều bài nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975), Nguyễn Lai trở về quê hương dùng kiến thức và tài năng giúp đỡ những nghệ sĩ tuồng, phần lớn là học trò cũ của mình. Ông tiếp tục bày, dạy cho Đoàn tuồng Quảng Nam - Đà Nẵng khi ông làm Chủ nhiệm khoa Tuồng ở Trường Nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Ông là giáo viên chính bộ môn tuồng ở Trường Văn hóa nghệ thuật tỉnh, cùng các nghệ sĩ Nguyễn Phẩm, Ngô Thị Liễu, Nguyễn Nho Túy ra sức đào tạo lớp diễn viên trẻ kế tục sự nghiệp của cha anh. Trước khi qua đời, ông trăn trối với các diễn viên trẻ: “Mong anh em ở lại cố giữ lấy nghề tuồng của cha ông, để nó mai một đi thì tiếc lắm”.
Nguyễn Lai sinh ngày 2-7-1902 tại làng An Quán, nay là xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông mất ngày 10-10-1982 tại Đà Nẵng và được Nhà nước truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân vào năm 1983. |
THANH QUẾ - PHAN HOÀNG THI