.

“Phiếu mẫu” đất Hà Lam

.

Dù góa bụa khi còn rất trẻ nhưng bà không những thủ tiết thờ chồng mà còn tham gia hầu hết các phong trào cách mạng, làm rạng rỡ cho cả quê hương mình lẫn quê hương chồng, được người đời xưng tụng là “Phiếu mẫu”(*).

Một góc làng Quan Nam ngày nay. (Ảnh minh họa)
Một góc làng Quan Nam ngày nay. (Ảnh minh họa)

Đó chính là bà Cử Lệ, nhũ danh là Nguyễn Thị Hướng, con gái đầu của Tri phủ Thăng Bình Nguyễn Đức Hoan.

Nguyễn Đức là dòng khoa bảng của làng Quan Nam, huyện Hòa Vang (nay thuộc xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang). Ngôi làng trù phú nằm dưới chân núi Kỳ Sơn, uốn mình theo bờ nam dòng sông Trường Định thơ mộng. Năm Tự Đức thứ nhất (1848), Nguyễn Đức Phong đỗ Cử nhân, được bổ làm Hàn lâm viện điển tịch, thăng Án sát sứ Quảng Bình, rồi Bắc Kỳ Tán tương quân vụ. 18 năm sau, vào năm Tự Đức thứ 16 (1864), người em là Nguyễn Đức Hoan, sau ba lần đỗ tú tài, lại nối chí anh tiếp tục lều chõng đi thi và đỗ Giải nguyên, được bổ làm Biên tu sử quán, sau đó làm Tri phủ Thăng Bình (Quảng Nam).

Nguyễn Thị Hướng sinh ngày 2 tháng Sáu, năm Kỷ Mùi (1859), được cha là Nguyễn Đức Hoan đem theo nơi trấn nhậm (làng Hà Lam, phủ Thăng Bình) vừa để ông dạy thêm chữ nghĩa, đạo lý ở đời vừa để thay mẹ chăm lo việc cơm nước cho cha. Tại đây bà đã lọt vào mắt xanh của ông tân khoa Nguyễn Hữu Lệ, vừa đỗ cử nhân khoa thi Hương năm Mậu Thìn (1868), rồi thành thân với người nổi tiếng hay chữ của làng Hà Lam này. Làng Hà Lam vốn là làng văn vật nhất huyện, quê hương của gia đình khoa bảng họ Nguyễn với một Phó bảng (Hà Đình Nguyễn Thuật), hai cử nhân (Nguyễn Uýnh, Nguyễn Tạo) và một tú tài (Nguyễn Suyền).    

Sau khi thi đỗ, ông Nguyễn Hữu Lệ được bổ làm Chủ sự Sơn phòng sứ Quảng Nam. Tuy chồng làm quan xa nhưng nhờ thừa hưởng nền giáo dục gia đình đầy đủ, truyền thống hiếu học và yêu nước của quê hương và nhất là từ tấm gương đạo đức của thân phụ và bá phụ, bà Cử Lệ sớm trở thành một người dâu hiền, được gia đình nhà chồng quý mến, bà con trong vùng nể phục.

Làm quan chưa được bao lâu, năm 1880, ông Nguyễn Hữu Lệ qua đời vì bạo bệnh. Lúc này bà Hướng chỉ mới 21 tuổi. Là “gái một con”, có nhan sắc và học vấn, lại đang ở thời kỳ phơi phới xuân thì, bà được nhiều người dòm ngó, đánh tiếng xin cưới làm vợ. Nhưng tất cả đều bị bà cự tuyệt. Bà quyết thủ tiết thờ chồng, nuôi con và tham gia làm việc nghĩa. Năm 1885, hưởng ứng hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi, Nghĩa Hội Quảng Nam được thành lập, lãnh tụ lại là một nhà khoa bảng nổi tiếng, là thủ trưởng của chồng bà lúc sinh thời, đó là Chánh Sơn phòng sứ Quảng Nam, Tiến sĩ Trần Văn Dư, cũng là người đỗ đồng khoa cử nhân với chồng bà năm 1868.

Mặc dù là phận nữ, lại góa bụa nhưng bà Nguyễn Thị Hướng nhiệt tình tham gia phong trào. Bà vận động anh em ở quê nhà Quan Nam đóng góp tiền của giúp đạo nghĩa quân của Thống Hay (tướng Hồ Học, đang hoạt động ở vùng từ núi Hải Vân đến An Ngãi, Hòa Vang). Ở quê chồng, bà đóng góp tiền của cho đạo nghĩa quân của Tán Hàm (Tiểu La Nguyễn Thành). Sau khi Nghĩa hội tan rã, do sự đàn áp đốt phá của quân Nguyễn Thân, Quảng Nam rơi vào nạn đói dữ dội, bà cùng vợ của Phó bảng Nguyễn Trường (thân phụ của Tiểu La) nấu cháo cứu đói, lo chôn cất những người chết.

Khi phong trào Đông Du và Duy Tân ra đời (1903 - 1908) bà là người tham gia ủng hộ. Nhà bà trở thành nơi liên lạc của các chí sĩ, ngoài việc tiếp đãi ăn uống bà còn cung cấp, đóng góp tiền bạc, không hề đắn đo tính toán. Bà là trợ thủ đắc lực, là chỗ dựa vững chắc cho Tiểu La Nguyễn Thành. Nhiều lần Phan Bội Châu đến Quảng Nam để liên lạc với Tiểu La và các đồng chí đều được bà chăm lo sắp xếp mọi việc, từ ăn ở, tiếp xúc cho đến các khoản chi phí. Bà vận động nhiều người đóng góp tài chánh giúp Cường Để, Phan Bội Châu và các du học sinh ở Nhật. Công việc của bà làm rất cẩn thận, chỉ có các đồng chí biết mà thôi. Nhờ vậy tổ chức không bị bại lộ.

Bà mất vào ngày 2 tháng 3 năm 1939, thọ 81 tuổi. Phan Bội Châu lúc này đang bị an trí ở Huế, có gửi một câu đối vào viếng: Hận ngã bất vương tôn, quốc sĩ vị thường thanh cựu nhãn,/ Phùng nhân đàm Phiếu mẫu, tuyền đài thượng đãi bạch sơ tâm. Cử nhân Hồ Ngận dịch: Giận mình không phải vương tôn, quốc sĩ lắm phen nhìn mặt trắng,/ Gặp ai cũng khen Phiếu mẫu, tuyền đài còn đợi tỏ lòng son.

Câu đối hiện còn treo ở ngôi từ đường của gia đình tộc Nguyễn tại thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Người như Phan Bội Châu còn phải gọi bà là Phiếu mẫu, đủ biết công của bà với phong trào lớn như thế nào!

LÊ THÍ


(*) Phiếu mẫu làm nghề đập vải trên sông. Hàn Tín thuở hàn vi được bà cho cơm ăn. Sau khi giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán, Hàn Tín về lại quê đích thân tìm Phiếu mẫu năm xưa để tạ ơn. Trong văn học,“Phiếu mẫu” dùng để chỉ người có lòng tốt, giúp đỡ không nghĩ đến việc trả ơn về sau.   

;
.
.
.
.
.