.

Vị "phúc tướng" người Quảng

.

Có vị tướng người Quảng không những được Triều Nguyễn phong là “Đệ nhất Ngũ hổ tướng Gia Định” mà còn được cả hai phía Tây Sơn và Nguyễn Ánh gọi bằng mỹ từ “ông phúc tướng”. Đó là Đoan hùng quận công Nguyễn Văn Trương.

Bia Nguyễn Văn Trương tại tiền hiền làng Hà Lam (thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình).
Bia Nguyễn Văn Trương tại tiền hiền làng Hà Lam (thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình).

Ông sinh năm 1740 tại xã An Lý, huyện Lễ Dương, nay là xã Bình Phú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Lúc nhỏ nhà nghèo phải đi giữ trâu cho người khác nhưng thiên tư về quân sự bộc lộ rất sớm. Ông tập hợp trẻ chăn trâu, tổ chức thành đội ngũ, bày trận đồ, tự xưng là đại tướng, chỉ huy bọn trẻ đánh nhau.

Lớn lên vào Gia Định theo phò Nguyễn Lữ lập nhiều công trạng, có lần ở Long Xuyên, ông truy đuổi Nguyễn Ánh chạy trối chết, may nhờ một cơn lốc, cây cối bị đổ, Nguyễn Ánh mới  thoát được.

Nhận thấy sự chia rẽ của anh em nhà Tây Sơn, nghiệp lớn khó thành nên ông bỏ Nguyễn Lữ. Về đầu quân Nguyễn Ánh, năm 1787, ông được họ Nguyễn phong làm Khâm sai chưởng cơ, cai quản đạo tiên phong doanh thủy trung quân. Từ đây ông tham gia hàng trăm trận, trận nào cũng thắng lợi vẻ vang. Năm 1788 đánh lấy Long Xuyên rồi Gia Định, Quy Nhơn. Năm 1789 đánh tan đội quân của tướng Phạm Văn Sâm ở Hố Châu. Năm 1795, đem quân cứu thành Diên Khánh. Năm 1801, dẫn thủy quân đánh cửa Thị Nại, thắng trận dẫn đại quân tiến ra cửa biển Cổ Lũy (Quảng Ngãi) rồi Đại Áp, Đại Chiêm (Quảng Nam). Quân ông đến đâu quân Tây Sơn tan vỡ đến đó, ông chiếm đồn La Qua tiến ra Đà Nẵng, lấy đồn Hải Vân, chiếm cửa biển Tư Hiền, Thuận An và tiến chiếm Phú Xuân. Thừa thắng tiến quân ra sông Gianh chặn đường rút lui của Tây Sơn.

Sau trận này, Nguyễn Ánh sai mang ấn và dây thao đại tướng đến giữa trại quân trao cho Nguyễn Văn Trương và phong làm Khâm sai chưởng trung quân, Bình tây Đại tướng quân quận công.

Nhưng trận thủy chiến thắng lợi trên sông Nhật Lệ mới là đóng góp lớn nhất của ông cho sự nghiệp của Nguyễn Ánh. Năm 1802, vua Cảnh Thịnh sai em là Nguyễn Quang Thùy trấn giữ Nghệ An, còn tự mình cầm quân định chiếm lại Phú Xuân. Đây là trận đánh có ý nghĩa quyết định cho cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh.

Hai bên chạm nhau ở Trấn Ninh. Đánh từ sáng đến chiều quân Tây Sơn vẫn không tiến lên được. Thấy thế trận ngày càng khốc liệt bất phân thắng bại, Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh riết vào lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Ánh đang cố thủ. Bà xua quân xung trận, tự tay thúc trống liên hồi. Quân của Nguyễn Ánh đã hốt hoảng định vượt sông Gianh mở đường máu thoát thân. Lúc quân Tây Sơn đang ở thế thắng thì thủy quân của Nguyễn Ánh do Nguyễn Văn Trương chỉ huy đánh tan thủy quân Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ tràn lên tiếp cứu. Bộ binh Tây Sơn tan vỡ. Quang Toản rút chạy, Bùi Thị Xuân buộc lòng phải phò vua ra Bắc. Từ đó quân Tây Sơn trượt dài trong thất bại.

Trong chiến dịch đánh Thăng Long, Trương chỉ huy thủy quân tiến chiếm cửa Giồn (Hà Tĩnh), cửa Hội (Nghệ An), chiếm vùng Sơn Nam Hạ rồi tiến vào Thăng Long.

Ông tham gia hàng trăm trận đánh, nhưng chưa trận nào ông bị thua. Đại Nam liệt truyện chỉ nói đến một trận thua duy nhất của quân ông vào năm 1801 ở núi Thần Đâu nhưng lại do viên phó tướng chỉ huy và vì không tuân theo chỉ dẫn của ông.

 Sau khi Gia Long lên ngôi, Nguyễn Văn Trương được cử làm quyền Tổng trấn Bắc Thành, sau đó vào Nam làm Lưu trấn Gia Định.

Là tướng tài, lập nhiều công nhưng ông lại rất khiêm tốn, nhân hậu và không ham danh vọng. Khi ông làm tướng Tây Sơn, quân Nguyễn Ánh bị thua, lội qua sông chạy trốn, quân Tây Sơn truy đuổi, ông ngăn lại bảo: “Nhân lúc nguy của người mà đâm, không phải là kẻ mạnh”, nhờ vậy nhiều người thoát chết. Sau này làm tướng của Nguyễn Ánh ông cũng đều xử sự như vậy với quân Tây Sơn. Khi làm quyền Tổng trấn Bắc Thành, một năm lụt lội dân bị đói. Ông tự ý mở kho phát chẩn. Vì việc này ông bị quở trách. Khi làm Lưu trấn Gia Định, quyền sinh sát trong tay nhưng bao giờ ông cũng châm chước công tội, thấu tình đạt lý, tâu về triều chờ lệnh chứ không tự ý quyết đoán. Năm 1803 bắt đầu thời kỳ bình xét công trạng, ông lại dâng sớ xin về hưu.

Người đương thời gọi ông là “phúc tướng”. Gia Long từng nói “Làm tướng mà nhân hậu như Trương xưa nay hiếm”.

Ông mất năm 1810, thọ 70 tuổi. Nhà vua  ban quan tài bằng gỗ giáng hương, cấp 1.000 quan tiền để lo ma chay. Ngày an táng, đích thân vua ngự thuyền rồng đi đưa.

Năm Gia Long thứ 14,  ông được thờ ở miếu Công Thần, được đứng trong danh sách công thần Vọng Các. Năm Minh Mạng thứ 5, thờ ở Thế miếu, 1835 thờ ở Võ miếu; truy phong Tá vận công thần, hàm Thái bảo, đổi tên thụy là Chiêu Vũ, phong Đoan Hùng quận công.

Con  cháu của ông tất cả đều thành danh. Con thứ là Nguyễn Văn Vân được phong Phó tướng Trung quân, làm quan đến Đô thống chế; khi chết được ban chức Chưởng doanh, tên thụy là Tráng Nghị, thờ trong đền Trung Nghĩa. Con út là Nguyễn Văn Ngoạn, được vua Gia Long chọn làm phò mã, gả công chúa đầu là Bình Thái, làm quan đến Khâm sai, thống chế, Đốc trấn Thanh Hóa. Cháu đích tôn là Nguyễn Văn Minh làm Cai đội. Cháu nội là Nguyễn Văn Thuận làm Quản cơ Vĩnh Bảo, khi chết được phong Phó vệ úy, thờ ở đền Trung Nghĩa. Các chắt của ông có Nguyễn Văn Lược làm Vệ úy Hậu vệ doanh tiền phong, tước Đoan hùng tử; Nguyễn Văn Duật lấy công chúa thứ 46 của Minh Mạng, làm Phò mã đô úy.

Đại Nam Liệt truyện của Sử quán Triều Nguyễn dành gần nửa quyển 8 để viết về ông. Tại nhà thờ tiền hiền làng Hà Lam (thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình) hiện còn lưu giữ tấm bia ghi công trạng của ông.

LÊ THÍ

;
.
.
.
.
.