Ngoại ngồi bên thềm nhà chậm rãi xoáy xoáy cối trầu. Bàn tay to bè của người phụ nữ quê chuyên làm việc nặng, năm tháng đã in hằn chi chít vệt đồi mồi. Nắng sớm xuyên qua hàng dừa đầu ngõ, hắt bóng nắng vàng ươm bên chỗ ngoại ngồi. Nắng mai có màu vàng thật nhẹ nhuộm trắng mái tóc đã bạc màu sương. Đàn sẻ nâu đậu trên cây khế bên hông nhà, thấy ngoại ra hiên ngồi liền sà xuống sân nhảy nhót. Ngoại với tay vào túi áo bà ba đã cũ, nhón nhúm gạo hắt xuống sân nhà phủ đầy vết rêu xanh. Đám rêu vừa mọc khi cơn mưa cứ dầm dề kéo dài mấy ngày trước. Sáng nay có nắng nên trời trong vắt. Cơn gió thổi lên từ bờ sông mang theo hơi nước ngọt lành. Sớm mai trong vắt đến độ có thể nghe được cả tiếng miếng trầu cay cựa quậy trong cối đồng trên tay ngoại. Hương trầu cay nồng, thoang thoảng trong hương gió.
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG |
Ngoài vườn, dây trầu bò xanh ngắt trên giàn tre. Giàn tre cha dựng lên đã nhiều năm, khi dây trầu bò trên ngọn mứt đỗ rạp vì cơn bão quét qua làng. Dưới giàn trầu là sạp tre đã cũ. Những trưa hè oi ả, ngoại hay ra ngồi nơi sạp tre hóng gió và ăn trầu. Gió ngoài vườn mát rượi mà ngoại vẫn không quên phe phẩy chiếc quạt mo cắt từ tấm cau vừa rụng xuống sau nhà. Nơi sạp tre cọt kẹt ấy, những buổi trưa hiu hiu cơn gió thuở còn thơ, mình hay lân la nằm bên nghe bà kể chuyện. Gió trưa vi vút, giọng bà ngọt dịu, đưa mình vào giấc ngủ say.
Ngoài vườn nắng thật to, đám sẻ nâu về đậu trên cây nhãn lồng cứ kêu inh ỏi. Thi thoảng, hàng xóm cũng ghé lại cùng bà ăn trầu và chuyện vãn. Những câu chuyện kéo dài lê thê khi bóng nắng đã vượt qua ngọn mít sau hè và ấm chè xanh cũng đã cạn. Lá chè ngoại hái sau vườn nhà. Trước ngõ vào nhà là hai dãy chè tàu xanh ngắt, mà ngõ sau nhà lại được ngoại trồng hai hàng chè cao vút. Mùa hoa chè, ngõ sau vườn thường điểm màu hoa trắng. Ngoại hay bẻ mấy nhành chè đang nở trắng muốt cắm vào bình đất đặt trước hiên nhà. Để khi ngồi đó chăm chút ngoáy miếng trầu cay lúc chiều buông lơi ngoài ngõ, ngoại lại hít hà cái hương hoa chè dìu dịu thoảng trong hương gió.
Ngoại ăn trầu rất cầu kỳ, lúc nào cũng phải có lá thuốc và vỏ chay ăn ghém. Lá thuốc thì mua ở chợ bên kia sông. Vỏ chay thì có sẵn ngoài vườn. Cây chay cuối vườn rất sai quả. Cha hay ra đào rễ chay để bà ăn cùng trầu. Mình mê mẩn những quả chay vàng rộm chấm với chén muối ớt cay xé lưỡi trong những chiều túm tụm với đám bạn quanh làng. Nhưng quả chay ngon nhất vẫn là kho với cá đồng và ớt trái. Ngoại nấu món này ngon nhất.
Những ngày mưa lâm thâm và trời se se lạnh, thích nhất là ngồi bên chái bếp thơm nồng mùi củi lửa, bưng chén cơm nóng ăn với miếng cá đồng kho chay của ngoại. Vị ngọt của thịt cá, vị chua thanh nhẹ nhẹ của chay và cả vị cay nồng của tiêu, ớt, gừng như bản nhạc rộn ràng hòa ca trên đầu lưỡi. Vừa ăn, vừa thích thú hít hà, ngoại ngồi bên bếp lửa nấu ấm nước chè xanh, không quên cằn nhằn đứa cháu “ăn từ từ kẻo xương”. Giọng ngoại nghe bỏm bẻm vì hàm răng hạt huyền đã khuyết mất mấy cái và miệng còn lấn cấn miếng trầu cay.
Hôm ngoại về bên kia núi cùng ông, nắng ngoài vườn buồn hiu phủ lên dây trầu ủ rủ. Cha cắt miếng vải trắng cột lên dây trầu đã già nua không nhớ tuổi. Vậy mà sớm mai thức giấc, lòng cứ ngẩn ngơ khi nhìn ra vườn thấy dây trầu đã úa. Lá trầu vàng rộm tả tơi rớt trên sạp tre từ đây vắng bóng ngoại ngồi. Cha đặt cối xoáy trầu nơi chiếc bàn gỗ thông ngoại vẫn ngồi xoáy trầu mỗi sớm. Cối xoáy trầu nằm chơ vơ. Mùi trầu cay đã vắng khi ngoại không còn. Một sớm mai thức dậy, nghe ngọn gió lao xao luồn qua khe cửa, mà cứ ngỡ ngoại vẫn còn ngồi đó, xoáy miếng trầu thơm.
TRÚC LINH