Đương thời, do có tài ứng khẩu thành thơ, kèm thêm tài kể chuyện tiếu lâm, nên khi trong làng có người làm nhà mới, họ thường mượn ông Năm Mực đến để kể chuyện tiếu lâm, giúp thợ có những giây phút cười sảng khoái, quên đi mệt nhọc.
Làng Bình Xá, nay thuộc xã Bình Quế, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, có nhân vật khá đặc biệt tên là Năm Mực (Mực là tên cha sinh mẹ đẻ còn Năm là người con thứ năm trong gia đình). Thuở nhỏ, do gia cảnh khó khăn nên Năm Mực không có điều kiện học hành đến nơi đến chốn. Nhưng bù lại, ông có khiếu văn chương bẩm sinh và có biệt tài không một ai trong làng có thể sánh kịp. Đó là tài... xuất khẩu thành thơ. Cái gì qua ông cũng thành thơ. Thơ ông tuy không xuất chúng nhưng có vần có điệu, đọc nghe rất xuôi tai.
Người ta vẫn còn nhớ như in rằng thời kỳ Việt Minh, tức khoảng những năm đầu thập niên 1940 đến nửa đầu thập niên 1950, do tác động trực tiếp của cuộc kháng chiến chống Pháp, đời sống bà con rất nghèo khổ, chật vật. Miếng ăn đã khó huống hồ chuyện rượu chè... Cho nên, bấy giờ rượu trở thành thứ cực kỳ xa xỉ. Muốn có rượu để uống không phải chuyện dễ. Nấu rượu cũng phải lén lút, không thể công khai. Cho nên, giá rượu rất đắt. Nhưng riêng ông Năm Mực cứ chiều chiều lại có rượu để uống, mới ghê. Bà con bảo nhau, cái ông này, không biết lấy tiền đâu ra mà ngày nào cũng rượu với rượu? Nghĩ cũng tài thiệt.
Những lời xầm xì, to nhỏ ấy, rốt cuộc rồi cũng đến tai ông. Vậy là ông làm ngay một bài thơ để... giải đáp thắc mắc của bà con, xua đi nỗi nghi nghi hoặc hoặc. Bài thơ như vầy: “Giàu như Hai Lự với Cả Khuê/ Thành phần trung phú đủ nghề cũng đói to/ Còn như Năm Mực giữ rẻ mấy con bò/ Lâu lâu họ bán họ cho ít đồng/ Rượu đâu có đủ bi-đông/ Cơm đâu lại có cơm không ăn hoài”.
Khi đất nước thống nhất, chủ trương của Nhà nước bấy giờ là đưa bà con vào hợp tác xã, làm chung, ăn chung. Thóc lúa khi gặt về đều phải nhập kho hợp tác xã. Sau đó, người ta tùy theo công điểm ít nhiều mà chia ra. Dĩ nhiên, khi vào hợp tác xã đã diễn ra tình trạng cha chung không ai khóc nên sản lượng nhiều năm không đạt, thu nhập thực tế của người dân giảm đi rõ rệt. Lúc bấy giờ, người dân tuy chán ngán kiểu làm ăn của hợp tác xã nhưng ai cũng sợ, không dám nói.
Ông Năm Mực cũng chẳng dại gì hé miệng. Nhưng, ông vẫn cứ ấm ức. Thế cho nên, mới có chuyện là lần nọ, nhân đi ngang qua đám lúa người ta đang gặt, lại có con cu đang gáy, tức cảnh, ông đọc ngay bài thơ: “Cu hỡi cu/ Sung sướng chi mi gáy mi gù/ Ruộng đồng lúa thóc có người thu/ Có phải của mày, mày đứng giữ/ Cong lưng mà gáy rụng lông cu”. Bài thơ được mấy ông thợ gặt khen hay, rồi khi rảnh thì đọc ngâm nga. Chẳng mấy chốc, lan ra cả xã.
Do có tài ứng khẩu thành thơ, kèm thêm tài kể chuyện tiếu lâm, nên khi trong làng có người làm nhà mới, họ thường mượn ông đến để kể chuyện tiếu lâm, giúp thợ có những giây phút cười sảng khoái, quên đi mệt nhọc. Hồi ấy, trong thực tế cuộc sống, có nhiều khi chủ trương chính sách đúng nhưng xuống đến làng xã lại thực hiện sai khiến dân vô cùng bức xúc nhưng chẳng biết kiện ai, đấu tranh với ai. Vì dân quê ít học, tầm hiểu biết còn hạn hẹp, kiến thức pháp luật gần như không có nên kiện làm sao được, nhất là trong thời kỳ bao cấp đầy khó khăn.
Thế cho nên nhân lúc rảnh rỗi, ông Năm Mực mới làm bài thơ tả con ong, nhưng thực ra có ý chê bai một số cán bộ địa phương không sâu sát thực tế, khiến dân tình phải khổ: “Tai nghe trong bụi vù vù/ Rờ lên trên trán thấy cục u/ Mới biết eo eo là giống độc/ Đầu đầu không độc mà độc đầu khu”. Cũng như những bài thơ khác, bài thơ này lan khắp làng trên, xóm dưới. Đặc biệt, trong lúc uống rượu, uống trà, người ta hay nhắc đến những bài thơ độc đáo nói trên của ông.
Chuyện đến tai xã. Người ta cho mời ông Năm Mực lên trụ sở để hỏi cho ra lẽ. Sáng hôm ấy, ông quần áo chỉnh tề, đến thật sớm, trước giờ hẹn. Cán bộ hỏi tại sao ông làm thơ nói xấu hợp tác xã? Ông bảo ông ít học, có biết chi mà nói xấu. Chẳng qua, ông thấy gì nói nấy thôi. Rồi ông trình bày rằng mình đi đường, thấy dân đang gặt, lại có con cu đang gáy nên tức cảnh làm thơ tả như rứa như rứa... Y sì chuyện xảy ra trước mắt. Có mấy ông thợ gặt làm chứng. Nào có nói xúc phạm ai đâu, có nói xấu hợp tác xã đâu? Còn trong bài thơ tả con ong, cái câu “Đầu đầu không độc mà độc đầu khu” là ông ca ngợi cấp trên làm đúng nhưng ở dưới thực hiện sai, dân mới khổ, chứ có ý gì khác đâu…
Xã vặn vẹo một hồi, không lấy cớ gì bắt bẻ được, đành phải cho ông về.
PHẠM HỮU ĐĂNG ĐẠT