* Xin cho biết hát Trống quân là cách hát ra sao và xuất xứ từ đâu? (Mạnh Hà, Hải Châu, Đà Nẵng)
- Nếu hát Tuồng (hay hát Bội) được thấy phổ biến ở miền Nam thì hát Trống quân - một dạng hát bình dân và phổ biến tại miền Bắc.
Về nguồn gốc của từ Trống quân, tác giả Nguyễn Tử Quang trong cuốn Điển hay Tích lạ (NXB Văn hóa Thông tin) dẫn lời các nhà nho Việt Nam cho rằng “Trống quân” do hai chữ “Tống quân” (tiễn bạn) mà ra.
Hát Trống quân. Nguồn: Internet |
Theo tương truyền ngày xưa khi một ông quan rời tỉnh này đi tỉnh khác, bạn bè tiễn đưa một quãng đường. Lúc sắp chia ly, người đi tiễn đặt một cái trống xuống đất rồi vừa nhịp trống vừa hát bài tiễn bạn trong đó có câu: “Tống quân nam phó thương như chi hà” (Khi ta tiễn bạn đi về phía nam, lòng đau đớn thế nào ai rõ được).
Có thuyết cho rằng: Trống quân bày ra từ đời vua Nguyễn Huệ. Nguyên khi ra Bắc đánh quân xâm lược Thanh (cuối thế kỷ XVIII), quân sĩ lắm kẻ nhớ nhà, vua Quang Trung Nguyễn Huệ mới bày ra một cách cho đôi bên giả làm trai gái hát đối với nhau để cho quân sĩ vui lòng. Đang khi hát có đánh trống làm nhịp cho nên gọi là Trống quân.
Có thuyết gần giống như thuyết thứ hai, cho rằng; hát Trống quân có nguồn gốc từ lối hát “Trung quân” - một điệu hát của quân lính đi theo nhịp trống. Mà quân đây là quân Nghệ Tĩnh của đạo binh Nguyễn Huệ kéo ra Bắc đánh giặc Thanh xâm lăng, cõng nhau rong ruổi ngày đêm không nghỉ. Về sau khi chiến tranh đã qua, nhân dân đem lối hát này vào những buổi hội hè gọi là hát Trống quân.
Có thuyết cũng cho rằng loại hát này phát xuất từ những điều kiện lịch sử gần giống như hai thuyết vừa kể, chỉ khác về mặt thời gian, là Trống quân có từ đời Trần lúc chống giặc Nguyên xâm lược (thế kỷ XIII). Tục truyền rằng: những lúc đóng quân để nghỉ ngơi, muốn giải trí, binh sĩ Việt Nam ngồi thành hai hàng đối diện nhau, gõ vào tang trống mà hát. Cứ một bên “hát xướng” vừa dứt thì bên kia lại “hát đối”. Sau khi đuổi được quân xâm lăng khỏi bờ cõi, hòa bình được lập lại, điệu hát Trống quân được phổ biến trong dân gian. Có nơi gõ nhịp vào tang trống, có nơi căng một dây thép thật thẳng để đánh nhịp.
Người ta chưa tìm được thuyết nào là đúng.
Hát Trống quân cũng như hát Quan họ không phải thuộc hát lao động, mà thuộc về loại hát lễ hay hát hội. Người hát thuộc về mọi tầng lớp trong xã hội nông thôn. Nhà nho, thư sinh hát với con cái gia đình kỳ mục, giàu có hay gia đình thường dân. Họ hoàn toàn không phải ca sĩ chuyên nghiệp mà chỉ là “tài tử” nghiệp dư sính hát, biết hát... Phần đông là trai và gái đến tuần cập kê, đi hát hội để tìm gặp tài sắc, ước định tương lai.
Hát hội có hai hình thức: hát vui chơi và hát thi lấy giải. Nơi hát có thể là nhà riêng, giữa làng, đầu xóm hay trên sân đình.
Thi hát có khi tổ chức giữa hai nhóm trai và gái, có khi giữa hai thanh nam thanh nữ. Ngoài mấy cuộc thi hát tại nhà, trai gái nông dân tự động tổ chức nhiều hội hát trên đám đất rộng giữa làng, bên bờ ruộng hay ở đầu cổng xóm. Trai gái ngồi ra hai bên cách nhau chừng mươi thước. Giữa hai toán có một cái “trống quân” mà ngày xưa gọi là “thổ cổ”. Trai hát xướng lấy que tre đánh vào dây kêu bình bình; gái hát đáp gõ cái sênh kêu cách cách làm nhịp.
Trống quân không phải là một loại trống, mà là một sợi mây dài độ 3 - 4 mét và dày độ 1cm. Người ta cắm hai đầu sợi dây mây dưới đất bằng hai cây cọc nhỏ bằng gỗ hay bằng tre. Ngay chính giữa sợi mây, người ta đào một lỗ vuông độ 4 tấc mỗi bề, rồi bịt lỗ ấy bằng một miếng ván mỏng. Có khi người ta dùng một khúc tre, một đầu chống lên sợi mây, một đầu chịu trên mặt gỗ.
ĐNCT