Mai Dị sinh năm 1880 tại làng Nông Sơn, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Điện Phước, huyện Điện Bàn) trong một gia đình Nho học có truyền thống yêu nước. Cha ông là tú tài Mai Luyện, từng bị hài tội “chết không được lập bia” vì tham gia Nghĩa hội Quảng Nam. Mẹ là bà Huỳnh Thị Lý, người làng Minh Hương, Hội An, từng gửi đơn kiện Công sứ Pháp và Nam triều lên Toàn quyền Đông Dương năm 1908.
Năm 1989, gia đình đưa hài cốt Mai Dị từ Huế về an táng ở quê nhà, xã Điện Phước, huyện Điện Bàn. (Ảnh: V.T.L) |
Từ nhỏ Mai Dị học rất giỏi, Phan Châu Trinh đã đánh giá “Mai Dị và Phan Khôi là hai Tiến sĩ tương lai của Quảng Nam”. Năm 1906, ông đỗ Cử nhân, không ra làm quan mà tham gia phong trào Duy Tân. Ông là một trong những nhân sĩ đầu tiên của Quảng Nam tham gia cắt tóc ngắn và mặc âu phục, là thầy giáo của Trường Diên Phong cùng với Phan Thúc Duyện, Phan Thành Tài. Cũng năm 1906, theo lời mời của Trần Quý Cáp, một phái đoàn Duy tân do Dương Bá Trạc cầm đầu từ Hà Nội vào thăm Quảng Nam để tìm hiểu tình hình và kết liên hoạt động. Đoàn ở lại nhà ông, vì thế sau đó ông được cử ra Bắc với tư cách phái viên của phong trào Duy Tân Quảng Nam. Ông cùng Phan Khôi được Phan Châu Trinh giao nhiệm vụ đem bài “Đầu Pháp chính phủ thư” ra Hà Nội giao cho Babut dịch sang tiếng Pháp để đưa cho Toàn quyền Đông Dương (1).
Năm 1908, nhân cuộc biểu tình chống thuế ở Quảng Nam, ông bị bắt ở Hà Nội, kêu án 3 năm đưa về giam ở Hội An. Mãn hạn tù, được mời làm Tri phủ nhưng ông từ chối.
Năm 1916, ông tham gia cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân do Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo. Ông đã bán một phần tài sản của mình để đóng góp cho cuộc khởi nghĩa, làm công tác vận động kinh tài và là người thay mặt vua Duy Tân thảo các hịch kêu gọi nhân dân đứng dậy khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt ở Hà Nội bị kêu án 3 năm tù.
Bản án sau này có người cho là quá nhẹ vì ông là nhân vật chủ chốt. Nhiều người cho là nhờ ông đã có thơ xướng họa cùng Tổng đốc Quảng Nam lúc bấy giờ. Nhưng sự thực là nhờ sự lanh trí của vợ ông và tinh thần đồng chí chiến hữu của các nhà yêu nước thời đó.
Sau khi mãn tù, Mai Dị ra Huế tham gia viết sách theo lời mời của Nguyễn Bá Trác. Do gia cảnh quá sức khó khăn sau hai lần đi tù, mặt khác, ông nhận thấy việc viết sách phục vụ cho nhiệm vụ khai dân trí cũng là việc cần thiết nên nhận lời. Ông là đồng tác giả của “Thừa Thiên đăng khoa lục”, “Thừa Thiên địa dư chí”, “Tự điển Hán Việt”.
Vào cuối đời do bi phẫn về tình hình đất nước lại thêm làm việc quá sức ông bị bệnh lao và chết ở Huế năm 1928, an táng trên núi Ngự Bình.
Suốt đời mình, Mai Dị mang ơn sâu nặng hai người phụ nữ tuyệt vời, đó là mẹ và vợ ông. Mẹ ông, một người đàn bà hết lòng vì chồng con. Năm 1908, sau cuộc biểu tình chống thuế, cha ông bị quản thúc tại nhà, bị tước học vị Tú tài và tịch thu toàn bộ vốn hùn trong hợp thương, còn ông bị kêu án tù 3 năm. Bà đã làm đơn kiện lên Toàn quyền Đông Dương. Trong đơn bà đã làm luật sư “cãi” tội cho chồng và con.
Bà cho rằng việc tước bỏ danh vị tú tài và quản thúc tại làng đối với chồng bà là vô lý vì ông Mai Luyện đăng ký góp 100 đồng vào Hội thương là chỉ để kiếm lời và được sự cho phép của Công sứ, vả lại, ông chỉ mới góp có 30 đồng mà thôi.
Còn việc buộc tội Mai Dị, con bà là không có căn cứ:
- Về tội mặc âu phục và cắt tóc ngắn bà cho là do bắt chước các ông tú, ông cử và học sinh của trường Pháp ở Huế. Mặt khác, đây là một cải cách tốt và nhà nước cũng chẳng hề ngăn cấm.
- Về mối quan hệ với ông Phan Thúc Duyện bà cho đó là mối quan hệ bình thường giữa những người đồng hương, không phải là mối quan hệ đồng chí vì sự chênh lệch về tuổi tác, địa vị. Là mối quan hệ đồng hương nên chẳng có tội tình gì cả.
- Việc đi khỏi làng mà không xin phép là do quá gấp không có thì giờ, vả lại ra Hà Nội là đi lại trên lãnh thổ Việt Nam, không việc gì phải xin phép.
Cuối đơn kiện bà kết luận “Tóm lại, con tôi không vi phạm một điều luật nào” nên “việc kết án 3 năm tù là quá bất công và gieo cho chúng tôi nỗi bất hạnh lớn lao” vì thế “phải trả tự do ngay cho con tôi để nó có thể đỡ đần cho vợ chồng chúng tôi trong những ngày tháng già nua tuổi tác”.
Lá đơn kiện của bà hiện còn lưu giữ tại Văn khố của Pháp.
Năm 1916, khi cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân thất bại, các lãnh tụ bị bắt, một người quen ở Đà Nẵng đã chạy về báo cho gia đình Mai Dị biết “đại sự đã vỡ, Mai Dị đã bị bắt”. Bà Nguyễn Thị Bài vợ ông, đã nhanh trí đem toàn bộ giấy tờ, sách vở, thơ văn của ông ra đốt. Hôm sau lính về xét nhà không tìm thấy bất cứ một tài liệu nào để làm bằng chứng khép tội, nhờ thế ông mới chỉ bị kết án 3 năm.
Với vai trò quan trọng của ông, trước đó ai cũng nghĩ ông sẽ bị tử hình hay ít ra cũng khổ sai chung thân. Nhiều người đã lén lập bàn thờ để tế sống ông và bản thân ông cũng nghĩ là mình bị chết nên khi vợ đến thăm ông đã nói lời vĩnh biệt “chết sống là lẽ thường chỉ mong mình về phụng dưỡng cha mẹ già và nuôi đàn con là tôi chết mãn nguyện rồi”.
Vì sự kiện này, khi ở tù về Mai Dị đã than thở “thoát tội nhưng sự nghiệp cũng tiêu tan”. Cũng vì thế dù sáng tác rất nhiều, hiện nay thơ văn của Mai Dị còn lại rất hiếm kể cả bài thơ Kiều ông làm để chửi Tổng đốc Hồ Đắc Trung vào năm 1908 và lá thư lên án Nguyễn Bá Trác (2) rất nổi tiếng của ông cũng ít người nhớ đầy đủ.
LÊ NAM QUẢNG
(1) Babut là chủ bút Báo Đăng Cổ, bạn của Phan Châu Trinh, hội viên Hội Nhân quyền Pháp.
(2) Là đồng hương và đồng khoa với ông năm 1906. Tham gia phong trào Duy Tân bị kêu án nhưng chạy thoát. Sau trở về đầu Pháp và làm đến chức Tổng đốc. Bị giết năm 1945.