Có dịp lên huyện Hiệp Đức (tỉnh Quảng Nam), ghé thăm khối phố Phước Sơn (thị trấn Tân Bình) hoặc làng Trà Sơn (xã Sông Trà), khách sẽ được nghe câu chuyện truyền thuyết về hai ngôi đình có chung gốc gác với “ông hổ rằn” nhuốm màu huyền thoại.
Đình Phước Sơn (ảnh trái) có gốc tích từ Đình Cháy và tượng ông hổ rằn ở đình Trà Sơn. Ảnh: A.T |
Năm 1509, ông Nguyễn Phủ cùng gia quyến từ Hải Phòng theo dòng người vào xứ Quảng Nam, dừng chân ở vùng đất thuộc huyện Duy Xuyên ngày nay, khai hóa, khẩn hoang, lập đất, dựng làng. Năm 1561, con trai ông là Nguyễn Phủ Quân (SN 1512), từ vùng đất Duy Xuyên dùng thuyền lớn chở theo nhiều người ngược dòng sông Thu Bồn về phía tây để tìm vùng đất mới khai cơ, lập nghiệp.
Khi đến ngã ba sông Tranh và sông Trường (thượng lưu sông Thu Bồn), đoàn người theo sông Trường dừng chân tại vùng đất Trà Sơn (thuộc xã Sông Trà, huyện Hiệp Đức ngày nay). Nhận thấy nơi đây đất đai bằng phẳng, có độ phì nhiêu, vừa có núi non xanh tốt bao quanh, vừa thuận tiện trong việc đi lại bằng đường thủy, ông Nguyễn Phủ Quân quyết định dừng chân tại vùng đất này để khai cơ lập nghiệp và lập làng, đặt tên là Phước Sơn với ý niệm cầu mong những người đến đây sống bình yên nhờ phước đức của núi rừng.
Dần về sau, người ở làng Bình Huề bên cạnh, người ở vùng hạ lưu từ Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An... cũng lần lượt di cư lên đây với nhiều dòng tộc khác nhau, quần tụ, gắn bó bên nhau trong tình làng nghĩa xóm. Dân làng thêm đông đúc, cuộc sống ấm no, trù phú, giao thương buôn bán phát đạt. Để tri ân công đức khai hoang, dựng ấp, lập làng của ông Nguyễn Phủ Quân, sau khi ông mất, dân làng suy tôn ông là vị Tiền hiền của vùng đất Phước Sơn và phần mộ được an táng tại vùng đất Ba Xâng, cách nơi cư ngụ của ông chừng độ 300m về hướng tây nam.
Khoảng giữa thế kỷ XVIII, bà con dân làng Phước Sơn bàn nhau chọn vùng đất lành, cao ráo và cùng chung tay góp công, góp của xây dựng một cái đình để làm nơi thờ tự ông Nguyễn Phủ Quân và các vị tiền bối, các vị thần phù hộ, độ trì cho làng. Nội dung của tấm bia đá đang lưu giữ tại đình Phước Sơn cho biết ngôi đình đầu tiên được xây dựng vào những năm Cảnh Hưng (1740-1786) dưới thời vua Lê Hiển Tông.
Đình được làm bằng gỗ, lợp tranh và gọi tên là “Phước Lãnh Hương Đình”, tọa lạc ngay trên khu đất mà ông Nguyễn Phủ Quân đã từng cư ngụ với diện tích rộng khoảng 500m2. Khuôn viên của đình hình vuông, bờ bao được được xếp bằng những lớp đá núi khai thác tại chỗ.
Theo các vị cao niên làng Phước Sơn, đình được dựng lên một thời gian thì xảy ra một biến cố lớn. Trong một lần phát cây, đốt rẫy để làm nương, người dân vô tình để đám cháy lan rộng làm cháy luôn cả ngôi đình bằng gỗ, tranh, tre, nứa. Sau khi đám cháy được dập tắt, những gì còn sót lại là hai tấm bia đá khắc bằng chữ Hán Nôm và những cây cột bị cháy sém. Từ đó, để con cháu sau về sau ghi nhớ biến cố này, người dân đã gọi ngôi đình này bằng một cái tên mới, dễ nhớ là Đình Cháy và cái tên này vẫn còn lưu truyền đến ngày nay.
Khoảng đầu thế kỷ XIX, nhằm tránh hỏa hoạn về sau, dân làng đồng tâm nhất trí chọn một khu đất trên Cồn Đình, bên bờ Đông con suối Ba Loai (hiện nay thuộc tổ 11, khối phố Phước Sơn, huyện Hiệp Đức), để dựng lại ngôi đình mới và đặt tên là Đình làng Phước Sơn làm nơi hội tụ thờ cúng của dân làng. Một số cột gỗ còn sót lại từ Đình Cháy được bà con chuyển về đây lắp ráp, bờ đá cũ bao quanh Đình Cháy và hai tấm bia đá được giữ lại.
Trải qua thăng trầm của thời cuộc, thiên tai, chiến tranh, đình làng Phước Sơn 5 lần được trùng tu. Bản dịch nội dung những tấm bia đá bằng chữ Hán Nôm hiện lưu giữ tại đình cho biết, lần trung tu sớm nhất là vào năm Gia Long thứ 13 (năm 1814), lần trùng tu thứ năm dưới thời vua Khải Định (khoảng vào năm 1920)... Trong những năm kháng chiến, đình Phước Sơn không may bị bom đạn của địch làm sập và đến năm 2001 được phục dựng, trùng tu lại như hiện nay.
Riêng khu vực tại nơi từng tọa lạc ngôi đình xa xưa có gọi tên là “Phước Lãnh Hương Đình” (tên dân gian gọi là Đình Cháy), năm 2007, được sự thống nhất và tạo điều kiện của ngành Văn hóa - Thông tin huyện Hiệp Đức cũng như của chính quyền địa phương, một số bà con dân làng Trà Sơn (phía Tây suối Ba Loai, thuộc xã Trà Sơn) đã đóng góp, tạo dựng lại ngôi đình làng ngay trên khu đất mà Đình Cháy ngày xưa đã tọa lạc, đặt tên là đình làng Trà Sơn để làm nơi thờ cúng của dân làng trong khu vực làng Trà Sơn.
Điều đặc biệt là trong khuôn viên của đình Phước Sơn và đình Trà Sơn hiện nay đều có một bệ thờ có tượng một ông hổ rằn được đắp bằng xi-măng. Ở đình Phước Sơn, bệ thờ “ông hổ rằn” nằm phía ngoài bên trái của đình; còn tại đình Trà Sơn, bệ thờ nằm ngay trước tấm bình phong.
Cụ Huỳnh Lại (85 tuổi, sống gần đình Phước Sơn) kể, xưa khu vực làng Phước Sơn có một vị thần quản lý đất đai, ruộng đồng, rừng núi..., có tài hô mây, gọi gió và có thể sai khiến những loài thú dữ để chúng không làm hại dân làng. Trong những lần đi hội họp, nghe ngóng, cứu nhân, độ thế, cứu giúp dân làng, ông thường làm phép sai khiến một con hổ rằn hung dữ làm vật cưỡi và bảo vệ ông những lúc hiểm nguy.
Từ truyền thuyết đó, ngoài việc thờ cúng vị thần phù hộ, độ trì của làng, dân làng dành cho “ông hổ rằn” sự tôn trọng và phong cho hổ vằn là “Sơn lâm hổ tướng”, đồng thời lập nơi thờ cúng. Theo quan niệm của dân làng, “ông hổ rằn” là vật cưỡi, là con vật đi theo bảo vệ vị thần của làng; “ông hổ rằn” không thể ngang hàng và không thể thờ cúng chung với thần ở trong đình được nên đã lập bệ thờ riêng để thờ cúng ở ngoài...
Khi phục dựng lại đình làng Trà Sơn, dân làng cũng xây một bệ thờ “ông hổ rằn” tại đình, ngay trước tấm bình phong có câu đối: “Phước lãnh hương đình/ Sơn lâm hổ tướng”.
AN TRƯỜNG